Trong “Lý dư bách táng pháp – Ác táng” có viết: “Gặp xác hung hồn ác, có thể đúc chì làm quan tài, phong kín bằng sáp đỏ. Nếu là thứ cực hung, sau khi đưa xác nhập quan tài chì, đậy nắp rồi đúc tiếp, nắp và thân được đúc liền với nhau để định”.

Quan tài chì không một kẽ hở được treo trên khung xương bằng bốn sợi dây xích đỏ sẫm đánh từ thép san hô ánh đỏ. Loại thép san hô ánh đỏ là do núi lửa dưới đáy biển phun trào, san hô trộn lẫn với nham thạch bị nung chảy mà thành. Trong pháp thuật Mao Sơn cũng có phương pháp dùng thép san hô ánh đỏ treo xác chết lên cao, không dính bách khí để ngăn chặn biến xác.

Lấy xương làm khung, đúc chì thành quan tài, đúc liền nắp với thân, treo bằng thép san hô, đây là táng pháp dùng để tuyệt diệt linh hồn. Chu Chân Mệnh lại nhẩm tính số bậc thang mà mình vừa đi qua, tổng cộng có ba mươi ba bậc. Mà cỗ quan tài này được treo cách mặt đất khoảng ba thước ba, bề mặt đỉnh đài khoảng ba trượng ba, lẽ nào đây là chính là đài Cố hồn tuyệt khí dùng để khoá diệt tam hồn trong truyền thuyết? o O o

Tháng bảy trời mát, khí dương trung thịnh. Mồng bảy là ngày Hoả Diệu, không gió, sấm động tây bắc.

Trên vùng hoàng thổ, nắng vừa đổ xuống, bụi đất liền bay mù mịt, giẫm chân lên mặt đất thấy xôm xốp, hơi nóng hầm hập bốc dọc theo ống quần, như muốn thổi căng phồng lớp quần áo. Trong khi mồ hôi lại chỉ chăm chăm dính bết quần áo vào da thịt, không giật ra nổi.

Trong khe Hoàng Thổ cách đó không xa, bị nắng gắt thiêu đốt đến nứt nẻ như mai rùa, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, khiến các gò đất vàng phía xa xa trông như đang chập chờn lay động.

Gần khe Hoàng Thổ mọc lên hai cây du rất lớn, khoảng cách giữa chúng bằng khoảng mười mấy bóng cây. Trên vùng hoàng thổ khô cằn này, mọc được những thân cây to lớn, cành lá sum suê như vậy quả thật không hề dễ dàng. Song hai cây du lại không hoàn toàn giống nhau, một cây tán cành vươn rộng, lá biếc tốt tươi, đem lại cho con người cảm giác mát mẻ thư thái. Cây còn lại cành rủ lá sần, toát lên một vẻ âm trầm chết chóc.

Song sự khác biệt thực sự giữa hai cây du không phải là ở cành lá, mà là ở những chuỗi quả du[15] trên tán cây. Trên cây du mang vẻ âm trầm chết chóc, những chuỗi quả du không có màu xanh biếc hay vàng sậm, mà lại mang sắc đỏ bầm. Hơn nữa dù không có gió, chúng vẫn tự động lắc lư, liên tục vặn vẹo, quằn quại, sun duỗi.

Đám quả du là sống, điều này mọi người đều khẳng định, song không mấy ai có thể nhận ra chúng chính là loài rết cây quan tài, trong giang hồ quen gọi là rết máu xác. Ở vùng biên cương phía nam, có một bộ tộc kỳ dị thường đem quan tài của người chết gác lên cây, gọi là “thụ táng”. Tuy nhiên không biết là vì gỗ đóng quan tài hay vì bản thân cây, nên gác lên cây chưa được bao lâu, trong một số cỗ quan tài thấy chui ra những con rết đỏ bầm, hình dạng rất giống quả cây du. Loại rết này khắp người chứa chất kịch độc, chạm vào sẽ chết ngay lập tức. Có người nói rằng giống rết này do hồn phách người chết hoá thành, cũng có người nói đây là trùng độc bảo vệ quan tài. Trong “Dị trùng phổ” và “Nam du thú lục” đều có ghi chép về nó.

Ngoài những chuỗi quả du sống, trên một chạc cây lớn còn có một người ngồi chồm hỗm, áo quần tơi tả, sắc mặt trắng xanh, mắt đỏ như máu, trong miệng ngậm một sợi chỉ đỏ. Nhìn từ hình dáng, trang phục cho đến biểu cảm, tư thế, đều toát lên một vẻ quái dị hệt như những chuỗi “quả du”, khiến người ta nhìn mà ghê sợ.

Dưới gốc cây lại có một người đang đứng, bụi đất phủ vàng trên mái tóc bóng mượt không một sợi rối, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt vẽ thành những vệt vàng khè, trên tay cầm một thanh đao đầu quỷ mặt cười lấp loáng hào quang màu lam nhạt, cuối chuôi đao phất phơ một vuông nhiễu lớn đỏ gay gắt, đỏ hơn cả màu mắt của kẻ ngồi trên cây. Người này chính là Tiếu Phật Nhi Lợi Hâm.

Cách gốc cây này khoảng hơn chục bước, có một kẻ bộ dạng hệt như một thầy mo Sa man đang đứng lầm lì, ánh mắt tán loạn, không ai biết hắn đang nhìn vào đâu; thế nhưng nhãn thần lại rất tập trung, bởi lẽ tất cả mọi người đều có cảm giác đang bị lão nhìn chằm chằm.

Đối diện với lão Sa man còn có hai người, chính là Hứa Tiểu Chỉ và một gã thanh niên trắng trẻo.

Hứa Tiểu Chỉ có vẻ đã thích ứng với môi trường của vùng cao nguyên hoàng thổ, bởi vì bãi bùn nơi hắn sinh sống vào mùa hè cũng thường xuyên có cảnh nắng cháy cát bay.

Phục sức của gã thanh niên trắng trẻo kia rất giống Quỷ Nhãn Tam, cây Vũ Kim Cương trong tay và cây xẻng lưỡi cày trên vai cũng giống y hệt. Có điều áo choàng của hắn có màu vàng đất mà không phải màu đen, giống hệt như màu đất nơi đây. Hắn ta chính là người con thứ bảy của Nghê gia, em họ của Quỷ Nhãn Tam. Nghê gia cử hắn đi tìm Nghê Tam, hắn đến Bắc Bình nhưng không tìm thấy. Sau đó, tới chỗ lão đạo trưởng của đạo quán tại khe Long Môn, mới biết anh họ mình đã theo Lỗ Nhất Khí đi về phía tây, hẹn gặp một nhóm người khác ở trại Mười Tám Dặm bên sông Vị Thuỷ ngoài thành Hàm Dương. Nghê Thất đã tới trại đó từ rất lâu, song chỉ gặp được nhóm phó quan Ngô. Cũng hiếm khi hắn kiên nhẫn như vậy, cứ đợi suốt ở đó cho đến tận khi Lỗ Nhất Khí tìm tới.

Nghê Tam không còn nữa, bởi vậy Nghê Thất không trở về. Nghê Tam vẫn chưa kịp hoàn thành trọng trách, bởi vậy hắn quyết không chịu khoanh tay làm ngơ.

Cách đó không xa còn có một đám người nữa. Dẫn đầu là lão mù tặc vương và phó quan Ngô, phía sau là đội quân cảnh vệ súng ống sẵn sàng. Thực hiếm khi Lỗ gia lại chiếm được ưu thế về số lượng như hôm nay. Song lão mù trong lòng hết sức bất an, tim đập loạn xạ liên hồi.

Lỗ Nhất Khí ngồi dưới tán cây du râm mát, song cậu lại không hề dễ chịu hơn những người kia. Bởi lẽ có một khí thế hung hãn đang bủa vây cậu, chèn ép cậu, khiến cậu không dám buông lỏng một giây.

Chiếc bàn gỗ hoa lê phía trước là bàn cờ vây được chế tạo vào giữa thời Minh, chuyên dùng để chơi cờ vây, thưởng thức trà.

-Xin mời đi trước! - Người áo xanh chìa bàn tay trắng trẻo thon dài ra một cách lịch thiệp.

-Tôi không thạo món này! - Lỗ Nhất Khí vẫn ngồi yên.

-Vậy xin mời thưởng trà! – Khí thế cuồn cuộn, song ngữ khí vẫn rất mực điềm tĩnh.

-Trời như đổ lửa, gặp nước tất uống lấy uống để, không có hứng thú thưởng trà. Hay là thôi vậy! - Lỗ Nhất Khí không phải không muốn uống, mà là không dám uống.

-Cậu không dám uống? - Người áo xanh như đã nhìn thấu gan ruột đối phương.

-Đúng vậy, tôi không dám! - Lỗ Nhất Khí chẳng quan tâm tới sĩ diện giang hồ, nên thẳng thắn đáp liền.

-Vậy thì hãy cùng trò chuyện! - Người áo xanh đang tiến gần tới mục đích.

-Người trong nghề khảm gia hãy nói về đạo lý khảm tử! - Lỗ Nhất Khí kỳ thực đang khiêu khích, muốn dùng miệng để giao đấu về khảm nút với người áo xanh.

-Ha ha! Vậy cậu hãy đánh giá về kỹ pháp của nhà ta trước! - Người áo xanh nói.

-Lấy hiểm chống hiểm, dùng lực tăng lực, giống như thắt nút dây thừng, nút chồng lên nút, một sợi dây thừng thắt nút như hoa, song khẽ giật đầu thừng, toàn bộ sẽ bung ra bằng hết! - Lỗ Nhất Khí xuất chiêu dựa vào lý luận trong “Ban kinh”.

-Vậy Lỗ gia đã từng có khảm nút nào làm khó dễ được người phía ta chăng? - Người áo xanh lập tức phản bác, hắn không thể đồng ý với lời nói của Lỗ Nhất Khí.

-Trong nghề khảm tử, bố trí khéo léo chỉ là thứ yếu, quan trọng nhất vẫn là giải. Bố trí có thể dựa vào thiên thời, địa lý, sinh linh vạn vật còn giải hoàn toàn dựa vào sức người. - Lỗ Nhất Khí lại đưa ra một lý luận trong “Cơ xảo tập”.

-Ý cậu là thuật phá giải trong môn phái của ta không bằng Lỗ gia?

-Tôi nói là giải, không phải là phá giải, càng không phải là phá.

-Có gì khác biệt không?

-Ông nói thử xem, một sợi dây thừng thắt nút chằng chịt như hoa, tháo ra dễ hơn, hay là dùng dao cắt đứt dễ hơn?

-Có thể cắt đứt mà không chịu cắt, cứ muốn phí công phí sức để tháo, cái nào hơn? - Người áo xanh dường như đã tìm được sơ hở của Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không trả lời ngay, cậu đang suy nghĩ. Đối phương nói rất có lý, trong rất nhiều trường hợp, phương pháp của đối phương thường hiệu quả hơn.

Thời gian suy nghĩ rất ngắn, bởi lẽ câu trả lời dành cho người áo xanh đã có sẵn trong đầu cậu:

-Nếu tôi vẫn cần sợi dây thừng đó thì sao?

Ánh mắt của người áo xanh vụt tối sầm lại, song chỉ trong nháy mắt thần thái lại phục hồi như cũ. Nói tới đây, có lẽ đã đến lúc phải dẫn dắt vào chủ đề chính.

-Nếu ta đưa cho cậu một sợi dây thừng, cậu có thể cùng ta tháo một nút thắt khác hay không?

-Sợi dây thừng của ông có thể treo nổi trọng lượng bao nhiêu? Sau khi tháo xong một nút thắt khác, thì sợi thừng đó sẽ thuộc về ai?

-Sợi thừng của ta có thể treo nổi trọng lượng bao nhiêu, cậu hãy tự mình tính toán. Còn sợi thừng đã được tháo nút, ta chỉ mượn dùng một lát, sau đó cậu vẫn có thể mang bảo bối phụng sự thiên mệnh! - Thần thái và ngữ khí của người áo xanh đều rất mực chân thành.

-Hãy cho tôi một lý do đáng tin cậy! - Lỗ Nhất Khí không vì thấy hắn chân thành mà sơ suất.

Kỳ thực lúc này, trong lòng Lỗ Nhất Khí hết sức bất an. Trong suốt những ngày qua, cậu luôn nghĩ tới việc tìm kiếm Thổ bảo đã mất tích từ sau khi di dời vị trí. Tối qua, cậu nói với mọi người hôm nay sẽ tới bờ sông Vị Thuỷ thám thính, song sáng sớm trước khi lên đường lại thay đổi lộ trình, đi theo hướng ngược lại tới bên khe Hoàng Thổ. Thế nhưng người áo xanh đã lại đứng chờ sẵn ở đó. Là do cậu đã để lộ ý đồ trong khi mơ ngủ, hay là có người đã chớp nhoáng báo cáo với hắn về hành tung của họ?

Người áo xanh vẫy tay một cái, từ sau gốc cây chợt hiện ra một lão già áo trắng. Lão già hệt như một cái bóng biết bay, thoắt cái đã tới bên cạnh bàn cờ vây, hai tay bưng một vật gì đó đưa tới trước mặt Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí ngồi im không cử động, không hề có ý nhận lấy túi vải. Người áo xanh bèn nói:

-Đưa nó cho ta!

Lão già áo trắng đưa túi vải cho hắn, rồi thoắt một cái lại mất tích sau gốc cây, hệt như lúc đến.

Chất vải của chiếc túi rất thô ráp, thô tới mức không giống vải. Đúng vậy, nó không thể gọi là vải, nó không phải được dệt thành, mà là được đập thành. Nó được làm từ vỏ cây sui được mệnh danh là “kiến huyết phong hầu”[16] chỉ có ở Nam Hải.

Người áo xanh mở chiếc túi bằng vỏ cây, lộ ra một vuông nhiễu kim tuyến vàng rực rỡ đến chói mắt. Khi hắn mới lật giở hai góc của vuông nhiễu vàng, thứ ở bên trong còn chưa lộ ra, thanh đao đầu quỷ của lão Lợi bỗng rung lên bần bật, phát ra tiếng kêu như báo gầm ưng rít. Đám rết máu xác như chuỗi quả du lúc nhúc trên cây đều cuộn tròn cả lại, chiếc trống da đeo trên lưng lão Sa man không gõ tự kêu, hệt như tiếng hồn ma thảm thiết.

Lỗ Nhất Khí đã cảm giác thấy bên dưới lớp nhiễu vàng có một làn khí tướng đang liên tục phập phồng, cuộn trào mạnh mẽ, tràn đầy huyết khí và sát khí, giống như hơi thở đầy phấn khích của ma thần khát máu. Cảm giác này giống y hệt như cảm giác lúc cậu nhìn thấy hộp gỗ kỳ nam kiến mật trên lưng người áo xanh lần trước.

Không cần người áo xanh lật mở góc thứ ba của tấm nhiễu vàng, Lỗ Nhất Khí đã lên tiếng:

-Lụa vàng gói gỗ nam tơ vàng, gỗ nam gói vũ khí giết rồng. Vũ khí giết rồng sinh đất thiêng, uống nghìn chén máu mới trở về. Đừng mở ra nữa, thanh thiên bạch nhật, chớ nên xúc phạm tới thần linh.

Người áo xanh bất giác thốt lên lời cảm thán:

-Nhìn khí để nhận người có nhiều kẻ biết, nhìn khí để nhận vật, trên đời này chỉ mình cậu biết.

Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy vô cùng khâm phục:

-Người biết tôi có khả năng nhận biết vật rất nhiều, nhưng chỉ có ông biết tôi dựa vào khí để nhận vật.

Hai bên cùng nhìn nhau cảm phục, quả là tri kỷ khó tìm.

Người áo xanh cũng không vòng vo nữa, mà đem hết những lời gan ruột và những suy nghĩ trong lòng nói với Lỗ Nhất Khí:

-Có lẽ cậu đã biết rằng ta là hậu duệ của hoàng đế nhà Minh. Nhưng trên đời này, những người biết về lai lịch của lão tổ tông nhà Minh lại không nhiều, cũng chẳng mấy ai biết được nguồn gốc của môn phái ta.

Lỗ Nhất Khí khẽ chen ngang một câu:

-Người có thuật giết rồng!

Lời vừa nói ra, người áo xanh lập tức mặt mày biến sắc.

-Đúng vậy, lão tổ tông của hoàng đế nhà Minh chính là người có thuật giết rồng, cậu phán đoán căn cứ vào món vũ khí giết rồng ư? - Người áo xanh không kể tiếp mà hỏi lại.

-Không phải, có nguyên do khác.

Lỗ Nhất Khí biết được thông tin này từ cuộn thẻ tre không chữ của Mạc Thiên Quy. Trong “Nam hoa kinh - Liệt ngự khấu” có chép: Chu Bình Mạn học thuật giết rồng từ Chi Ly Ích, tiêu hao gia sản nghìn vàng, sau ba năm học thành, song không có chỗ để thi triển kỹ nghệ”. Cậu nói tiếp:

-Tổ tiên Chu gia chính là Chu Bình Mạn, người đã học được kỹ nghệ giết rồng. Người của Mặc gia khi chôn giấu bảo bối cuối cùng, trong nhà đã hết nhân tài, nên đã nghĩ tới người của gia tộc giết rồng, muốn mời tổ tiên Chu gia trợ giúp, để hoàn thành sự nghiệp đại thiện. Song tổ tiên của ông lại lén xem trộm bí mật về Thiên bảo từ “Mặc môn thập bát thiên”, âm thầm lấy mất Hoả bảo trong ngũ hành. Từ đó về sau, Hoả bảo được mang tới nơi nào, nơi đó liền xảy ra hạn hán, biến thành nghìn dặm đất khô cỏ cháy. Do Hoả bảo bị dịch chuyển mà gặp phải tai ách này, cũng là cái lý của trời, thế nhưng Chu môn các người hết đời này đến đời khác vẫn ôm khư khư bảo bối quyết không chịu buông, chỉ mong dựa vào bảo bối mà giành lấy ngôi vị bá chủ thiên hạ.

-Thực sự không muốn buông, là người ai cũng như vậy cả thôi! - Người áo xanh nói rất thẳng thắn.

-Tổ tiên Chu gia tuy có được Hoả bảo, song vẫn không thể biết được thiên cơ nhờ bảo bối để đoạt thiên hạ. Có điều họ Chu cũng nhờ được phúc của bảo khí mà sinh ra nhiều nhân tài kiệt xuất. Cho tới cuối đời Nguyên, nhờ sự giúp đỡ của những cao nhân như Lưu Bá Ôn, Chu Điên, mới có thể nhờ vào phúc trạch của Hoả bảo mà giành được ngôi vị chí tôn, đó là nhờ Hoả mà sáng, do đó mới lấy quốc hiệu là Minh.

Người áo xanh khẽ thở dài một tiếng:

-Chim tham miếng ăn, người tham phú quý, cũng khó trách những con người chưa thoát khỏi thói tục trong Chu gia ta.

-Vậy ông đưa món chí bảo của tổ tiên là vũ khí giết rồng cho tôi, là muốn buông bỏ sợi dây ràng níu kia để thoát khỏi thế tục ư? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Thật hổ thẹn! Vẫn chưa đến được cảnh giới đó.

-Vậy ông vẫn mong cầu một sợi dây thừng khác?

-Đúng! Mà cũng không đúng!

Lỗ Nhất Khí cảm thấy khó hiểu:

-Thứ lỗi cho tôi ngu muội, khó mà thấu hiểu được đạo lý này. Lại nữa, Hoả bảo trong ngũ hành từ xưa tới nay luôn nằm trong tay Chu gia, chỉ cần chú ý nuôi dưỡng thờ cúng, cố gắng chờ đến khi bảo khí hết vòng thu ẩn, bình thường, hưng vượng đủ ba trăm năm, vẫn có thể nương tựa vào bảo bối, hà cớ gì phải tìm kiếm khắp nơi mà cướp đoạt.

-Nguyên uỷ của việc này phải kể cho tường tận mới rõ được. Chu gia ta có được đế vị là nhờ vào bảo khí, đến khi bảo khí chuyển sang giai đoạn bình, hẳn sẽ phải lo lắng không yên. Trong khi phương pháp giải quyết mà Lưu Bá Ôn để lại đã bị thất lạc trong cuộc chiếc loạn giữa Huệ Đế Chu Doãn Văn và Thành Tổ Chu Đệ. Bởi vậy, suốt mấy đời hoàng đế sau đó đã phải lao tâm khổ tứ tìm kiếm đủ các phương pháp đặc biệt nhằm phục hưng bảo lực.

-Chuyện này tôi cũng có biết ít nhiều. Vượt đại dương, lùng sục khắp thiên hạ, dựng Báo phòng, xây hai xưởng Đông, Tây, nhìn vào hai nhà Lỗ, Mặc mà tìm kiếm gợi ý từ trong nghề mộc, đều là những phương pháp cực đoan.

-Kỳ thực chuyện hoang đường nhất vẫn chưa dừng lại ở đó. Khó tưởng tượng nhất là vào năm Thiên Khải, hoàng thượng tin lời một đạo sĩ lang thang, dẫn lửa trời thiêu đỉnh vàng, dùng Hoả để luyện Thiên bảo.

-Ý của ông là dùng lửa chớp để luyện Hoả bảo ư?

-Không những dùng lửa chớp, mà còn dùng lửa của mặt trời và lửa của thiên thạch. Dùng những loại lửa này dẫn cháy gỗ vạn thánh, than thiên sơn, đặt Hoả bảo trong đỉnh tròn tử kim cửu long nhật nguyệt, rồi luyện trên lửa, cho hơn nghìn tăng, đạo, ni cô vây xung quanh tụng kinh văn cầu trời nạp phúc suốt ba ngày ba đêm không ngừng nghỉ.

-Kết quả thế nào? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Vào ngày thứ ba, đột nhiên sáng tối đảo lộn, Tý Ngọ đổi giờ, vào lúc giữa trưa mà trời tối đen như mực. Trong đỉnh tròn tử kim cửu long nhật nguyệt có ánh sáng trắng phun trào dữ dội, sau vài lần lên xuống thì nổ tung, san phẳng một phạm vi hơn hai chục dặm.

-Là vụ nổ lớn Thiên Khải[17]! Vụ nổ khủng khiếp vào năm Thiên Khải hoá ra là do Chu gia dùng lửa trời và đỉnh vàng luyện Hoả bảo gây ra ư?

Người áo xanh gật đầu khẳng định.

-Chi mạch của ông có rất nhiều cao sĩ, nhân tài, tại sao không có một ai ngăn cản?

-Lúc đó chi mạch của ta chưa có!

-Chi mạch của ông chưa có? Nhưng sau thời Thiên Khải cũng chỉ còn hai đời hoàng đế, có lẽ không có chi mạch nào có thể hội tụ được thực lực lớn mạnh như chi mạch của ông! - Lỗ Nhất Khí rất am hiểu lịch sử nhà Minh, bởi vậy càng nghe càng thấy khó hiểu.

-Chi mạch của ta chỉ là chi mạch nhánh, không được liệt vào hoàng thất, sử quan không chép, người đời không hay.

Về điểm này, Lỗ Nhất Khí không tỏ vẻ kinh ngạc, cũng không hỏi thêm, chỉ khẽ mỉm cười. Bởi lẽ họ Chu Minh quả thực gian mưu quỷ kế quá đỗi, sự việc có quái lạ đến đâu với gia tộc họ cũng chỉ là bình thường.

Thấy cái mỉm cười đầy ẩn ý của Lỗ Nhất Khí, người áo xanh khó che giấu được vẻ phật ý:

-Ngươi hoài nghi Chu môn ta là mạo danh ư?

Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ có nét mặt đã trở lại bình thường.

-Vậy để ta nói cho cậu rõ, chi mạch này của ta đích thực là thân thích của hoàng đế triều Minh, chỉ có điều nguồn gốc có ẩn tình, nếu để người đời biết được, sẽ khinh thường hoàng thất nhà Minh. Có điều hôm nay kể cho cậu nghe cũng không phương hại gì. Chi mạch của ta là đích mạch của Thiên Khải đế, thân mẫu là...

-Khoan đã, đừng nói gì nữa! Một số bí mật sau khi biết được, tính mạng sẽ khó được lâu dài! - Lỗ Nhất Khí quả quyết chặn ngang lời người áo xanh.

-Vậy ta sẽ không nói nữa, có điều dựa vào trí tuệ của tôn giá đây, chắc hẳn đã có thể suy đoán ra lai lịch của chi mạch Chu môn ta.

Lỗ Nhất Khí không quen nói dối, nên khẽ gật đầu. Cậu thực sự đã đoán ra được nội dung mà người áo xanh định nói ra.

Là đích mạch của Thiên Khải đế, song không thể cho người đời biết, lại có được nguồn nhân lực, tài lực lớn mạnh đến vậy, kết hợp cả ba yếu tố này, chỉ có thể đưa ra một đáp án duy nhất: chi mạch này do Thiên Khải đế và nhũ mẫu Khách thị sinh ra.

Thiên Khải đế si mê nhũ mẫu Khách thị, lại bị Khách thị mê hoặc đến không dứt ra nổi. Song dù là chính sử hay dã sử, cũng đều không thấy ghi chép giữa họ có cốt nhục chung, có lẽ chính là nhờ công lao của đại thái giám Nguỵ Trung Hiền vốn rất thân thiết với Khách thị. Vừa muốn che giấu cốt nhục của Khách thị và hoàng đế, lại vừa muốn cốt nhục này sở hữu được thực lực và tài sản to lớn, chỉ có thể nhờ vào sự trợ giúp của hai xưởng Đông, Tây trong tay Nguỵ Trung Hiền; hơn nữa, để chi mạch này sở hữu được bảo bối giết rồng do tổ tiên Chu gia truyền lại, cũng chỉ có Khách thị và Nguỵ Trung Hiền đủ sức thực hiện.

-Nói như vậy, nếu ông giành được Thiên bảo, không những có thể chấn hưng hoàng thất nhà Minh, mà còn có thể quy về dòng mạch chính.

-Quả thực là nhằm mục đích này! Chi mạch của ta tuy nhân đinh không vượng, song đời đời đều vắt kiệt tâm huyết và trí lực để tìm kiếm những món bảo bối khác. – Người áo xanh rất thành thực.

-Các người đã muốn dựa vào bảo bối khác thay thế cho Hoả bảo để tiếp tục giành lấy ngôi vị đế vương, thì làm sao tôi có thể tin rằng các người chỉ mượn dùng một lát? - Lỗ Nhất Khí hỏi vặn.

Người áo xanh mỉm cười nói:

-Không ngờ cậu lại xoay ngược trở về vấn đề này. Cậu đã hỏi thì ta sẽ giải thích cho cậu nghe. Tổ tiên Chu gia sau khi lấy được bảo bối, phải chăm chút thờ cúng hết đời này đến đời khác, đến nghìn năm sau mới có thể tích tụ đủ bảo khí để dùng. Bây giờ, dù chúng ta có lấy được bảo bối khác, muốn nhờ cậy được e rằng chí ít cũng phải đợi cả nghìn năm. Bởi vậy mục đích của Chu gia ta vẫn là Hoả bảo.

-Vẫn là Hoả bảo? Chẳng phải đã bị nổ tung trong lễ Hoả tế rồi ư?

-Giữa Thiên bảo và Thiên bảo huyền nghĩa tương đồng, linh tính tương thông, có thể lợi dụng bảo khí của một bảo bối để tích tụ nên bảo tướng của bảo bối khác. Bởi vậy ta muốn lợi dụng một bảo bối khác để tích tụ nên Hoả bảo trong ngũ hành. Nguyên lý này là do cao nhân tiền bối nhà ta nghiền ngẫm được từ trong tổ huấn của Chu gia.

Lỗ Nhất Khí đã hiểu, trong “Cơ xảo tập” có viết rằng, Mặc gia được “bảy phần thiên cơ ba phần khéo”, mà giáo huấn của tổ tiên Chu gia thực chất chính là “Mặc môn thập bát thiên”, có thể tìm ra nguyên lý thâm diệu này từ trong đó cũng là lẽ thường tình.

Kỳ thực ngay từ lúc người áo xanh nói “chỉ mượn dùng một lát” sợi thừng đã được tháo nút, Lỗ Nhất Khí đã nghĩ ngay tới việc lấy bảo tụ bảo. Suy cho cùng cậu cũng đã nghiên cứu toàn bộ “Cơ xảo tập”, lý luận ghi chép trong đó không ai có thể hiểu rõ bằng cậu.

-Theo như tôi được biết, tại nơi Thiên bảo nổ tung sẽ hấp thụ được toàn bộ bảo khí và những mảnh vỡ của Thiên bảo, Chu gia chỉ cần chiếm được nơi đó, coi như cũng đã lợi dụng được bảo lực, hà cớ gì phải dùng món bảo bối này để trao đổi với tôi? - Lỗ Nhất Khí ngoài mặt có vẻ như đang nghĩ cách giúp đối thủ, song kỳ thực lại muốn xác minh một phán đoán rất quan trọng của mình.

-Điều này Chu gia sớm đã nghĩ tới, cũng đã từng mời cao nhân xem xét, song kết luận là nếu như Thiên bảo vỡ tan, con người sẽ không thể dùng được, chỉ có thể kết thành địa linh. Có được phúc trạch từ bảo khí của Hoả bảo tản mát, nên kinh đô Tử Cấm sẽ mãi mãi trở thành đất đế vương, song lại không thể mãi mãi là đất đế vương của một dòng họ.

-Ồ! – Câu trả lời này đúng là một “thu hoạch” lớn của Lỗ Nhất Khí trong cuộc đàm phán với người áo xanh.

Tuy nhiên, “thu hoạch” mà Lỗ Nhất Khí mong muốn có được nhất vẫn đang ở trước mặt người áo xanh, cậu có một cảm giác vô cùng mãnh liệt rằng món bảo bối đang nằm trong chiếc hộp gỗ nam tơ vàng kia sẽ thuộc về mình, mà không, nói chính xác hơn là nó sẽ thuộc về nơi mà nó nên thuộc về.

Người áo xanh hiểu rằng những điều nên nói đều đã nói xong, bèn cẩn thận gói ghém tấm lụa vàng và túi vỏ cây lại như cũ, nhẹ nhàng đẩy tới trước mặt Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không nhận lấy mà đứng thẳng dậy, nhìn xa xăm về hướng tây bắc. Nơi đó, lớp lớp mây đen đang cuồn cuộn kéo về, trong trời mây thi thoảng lại xẹt qua một tia vàng chói lọi, chạy dài xuống tận mặt đất.

-Dông tố sắp tới rồi! - Lỗ Nhất Khí khẽ nói.

Người áo xanh không có phản ứng gì. Hắn đang chờ đợi.

Lỗ Nhất Khí vẫn chưa cầm lấy chiếc túi vỏ cây, mà đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Cậu nhìn thấy rất ít, song lại cảm giác được rất nhiều. Dưới khe đất phía nam vụt lên một luồng khí bừng bừng, là một luồng kiếm khí rất quen thuộc, chỉ có điều lúc này dữ dội hơn hẳn lần trước, phản ứng này chắc hẳn có liên quan tới món vũ khí giết rồng. Sau gò đất nhỏ phía bắc có một làn khí âm tà dật dờ lan toả, đó là ma khí, mức độ dày đặc rất giống với làn ma khí quanh Dưỡng Quỷ Nương. Còn một luồng khí nữa cách đám người của phó quan Ngô không xa, đó là một làn thi khí ma quái phả lên từ trong lòng đất. Không phải là thi khí của cương thi ẩn phục, cũng không phải là của xác chết nhập tràng, trên đời này hình như không có loại thi khí nào giống như vậy, trong khí âm sát cực độ lại kèm theo một thế thái rừng rực.

Lỗ Nhất Khí lại ngồi xuống, đồng thời liếc về phía sau lưng người áo xanh. Ở đó có gốc cây du mà lão áo trắng vừa ẩn nấp, mặt đất vàng nơi đó cũng thoáng chút xao động.

-Đã gặp gỡ vài lần, vẫn chưa biết tôn tính đại danh của tôn giá đây! - Lỗ Nhất Khí thu ánh mắt lại, nhìn thẳng vào bộ râu đen nhánh rất mực nho nhã của người áo xanh.

-Chu Chân Mệnh, môn trưởng của Chu gia.

-Được, Chu môn trưởng, việc này tôi đồng ý! - Lời vừa thốt ra, bàn tay của Lỗ Nhất Khí đã đặt lên chiếc túi vỏ cây.

-Vậy lúc nào sẽ tháo nút dây? – Chu Chân Mệnh vẫn e sợ phát sinh chuyện ngoài ý muốn.

-Đêm nay! - Lỗ Nhất Khí đáp.

Vừa nghe, Chu Chân Mệnh hai mắt vụt sáng:

-Ở đâu?

-Không xa!

Vùng cao nguyên Hoàng Thổ trời tối muộn, cái mát mẻ cũng quay về cùng với bóng đêm. Mãi vẫn không thấy mưa rơi, chỉ có mây đen dày đặc cuồn cuộn cuối chân trời, những chớp vàng chói lọi chốc chốc lại rạch toang bầu không phía xa xăm.

Trên cánh đồng hoang vu phía trước xuất hiện một vài bóng đen cao lớn, lù lù như gò đất ngáng đường, lại càng giống những vị thần tuần đêm.

Lỗ Nhất Khí khẽ ghì dây cương lừa, dừng lại trong cái bóng âm u của những khối đen.

-Ai gọi Chu môn trưởng ra đây! - Lỗ Nhất Khí nói với người bên cạnh.

Chu Chân Mệnh vươn thẳng người trên lưng ngựa, ánh mắt nhìn thẳng, thần thái điềm tĩnh. Hắn ung dung băng qua đám người phía Lỗ Nhất Khí, tới trước mặt cậu.

-Chu môn trưởng, ông hãy xem địa hình nơi đây, đúng là cửa gió lùa có hình khe núi máng cạn tiêu chuẩn. Song kỳ lạ là ở chỗ, tại cửa gió lùa lại có đất tụ thành ba gò, bao năm mưa gió vùi dập mà không sập lở, ông cảm thấy nguyên do vì đâu?

Chu Chân Mệnh không trả lời ngay. Đến tận khi phía trời xa xẹt qua một tia chớp tía, mới thong thả lên tiếng:

-Gò đất phía nam ở vị trí nam lệch bắc, dưới là đá xếp, trên là đất nện, nên không bị mưa phía nam xói mòn. Gò đất phía bắc hai góc giao nhau, mặt gò bằng phẳng, có thể ngăn cản gió tây bắc thổi tới. Cả hai gò này đều là kiến trúc bảo vệ do con người dựng nên. Gò ở giữa tuy không nhìn rõ cấu tạo, song lại được hai toà kiến trúc nhân tạo kia bảo vệ, chắc chắn không phải là gò đất bình thường.

-Cao minh! Tôi nói cho ông biết, gò đất ở giữa có thế lạc đà nằm, cửa hút gió ở phía tây vốn là một vành hình vòng cung, ông nghĩ thế nào về điều này? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Cục tướng này là “Ngọc tàng kim hộc”[18] được ghi chép trong “Kham dư âm dương quyết”. Nếu quả đúng là như vậy, chỗ đó có lẽ là cư thất của đế vương bị đất trôi chôn vùi. – Chu Chân Mệnh trả lời.

-Sinh thất hay lăng thất?

-Rất khó nói. Nếu là sinh thất, tại sao phải đắp đất làm gò. Nếu là lăng thất, thì không cần thiết phải xây dựng công trình che mưa thông gió. Cụ thể ra sao cần nhìn phần đỉnh nóc của công trình mới có thể phán đoán chắc chắn.

-Đúng vậy! Gò đất này còn có một hiện tượng kỳ lạ nữa đó là đất bám lên thì dính chặt, nước chảy qua thì không thấm, cây cỏ không mọc được.

-Đất bụi tự tích tụ ư? Vậy thì trong đó chắc chắn phải có bảo bối quý hiếm! – Khi nói câu này, trong mắt Chu Chân Mệnh loé lên một tia sáng rực – Đã biết được hiện tượng kỳ lạ này, tại sao mấy ngày qua cậu lại đi thăm dò nơi khác?

-Điều này tự có nguyên do riêng. Trong hai nơi đó, có một nơi là phương vị Bộ Canh, là một sống đất cao trăm trượng nằm vắt ngang hướng âm dương của dòng sông. Nơi còn lại là phương vị Tâm Canh, hai mươi tám ụ đất dàn trải tại tây nam theo phương vị ngược của tinh tú. Nơi thứ nhất cách đây bảy mươi hai dặm, là số Thiên tinh; nơi thứ hai cách đây ba mươi sáu dặm, là số Địa môn. Hai nơi đó kết hợp với vị trí Nhâm Canh chỗ này vừa hay hình thành thế đất ba bậc.

-Cậu nói khí tướng nơi đây là bày Thiên tinh mở Địa môn, song lại xuất hiện hiện tượng nằm ngang âm dương, đảo ngược tinh tú, là bởi vì Thổ bảo di dời vị trí?

Lỗ Nhất Khí không trả lời, chỉ nói khẽ:

-Gọi người của ông tới ra tay đi!

-Còn một vấn đề nữa, nếu gò đất này là sinh thất, lối vào có lẽ ở phía nam; nếu là lăng thất, lối vào có lẽ ở phía đông. Bọn ta nên bắt đầu từ chỗ nào? – Chu Chân Mệnh lại hỏi.

-Tiến hành đồng thời! Người của tôi và của ông trà trộn với nhau rồi chia ra làm đôi, tiến hành từ cả hai phía. - Biện pháp của Lỗ Nhất Khí rất công bằng, hai nhà trà trộn với nhau, có thể theo dõi lẫn nhau, không có chuyện giấu giếm riêng tư.

-Như vậy rất hay, song ta nhất thiết phải đi cùng với cậu! – Yêu cầu của Chu Chân Mệnh có vẻ rất hợp lý.

-Được! – Gò má của Lỗ Nhất Khí khe khẽ giật lên một cái, không biết muốn tỏ ý cười hay khó chịu.

Chú thích

[15] Quả của cây du là loại quả cánh có hình tròn hoặc hình trứng, hạt nằm ở giữa quả hoặc hơi nhích lên trên, phình lên giữa quả, trông giống như đồng tiền xu, nên người ta thường gọi là du tiền.

[16] Có nghĩa là chạm vào máu, sẽ cứng họng chết ngay tức khắc.

[17] Vụ nổ lớn xảy ra ở xưởng Vương Cung, lịch sử gọi là “vụ nổ lớn Thiên Khải” hoặc “tai nạn xưởng Vương Cung”. Vào 9 giờ sáng ngày 30 tháng 5 năm 1626, ngay sau tiết Đoan Ngọ một hôm, đã xảy ra một vụ nổ khủng khiếp tại khu vực gần kho thuốc nổ của xưởng Vương Cung phía tây nam Bắc Kinh.

[18] Có nghĩa là ngọc ẩn trong đấu vàng, chép trong “Kham dư âm dương quyết”, là tên gọi của vùng đất phong thuỷ cực tốt trong Kham dư học. Có nghĩa là ba mặt núi cao một mặt núi thấp vây quanh, miệng nhỏ bụng to, giống như là cái đấu bằng đồng đổ nghiêng. Hướng của nó có thể thu nạp tối đa nhật nguyệt, nuôi dưỡng đá như ngọc. Vùng đất phong thuỷ này không những có thể hấp thu tinh hoa nhật nguyệt mà còn là cứ điểm quan trọng công thủ song toàn trong quân sự. Bởi vậy các bậc đế vương thường lựa chọn vùng đất này để xây dựng kinh đô hoặc cung điện.

Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện