CHƯƠNG 23:JON
Gió mạnh cùng mưa quật lên mặt Jon khi hắn thúc ngựa vượt qua dòng suối nước dâng cao. Bên cạnh hắn lúc này, tổng tư lệnh Mormont giữ chặt chiếc mũ chùm đầu của áo choàng, miệng lầm bầm nguyền rủa thời tiết. Con quạ đang đậu trên vai ông, lông vũ xơ xác như bị nhúng nước và gắt gỏng như chính Hùng Lão (Old Bear). Một cơn gió nổi lên, những tán lá ướt nhẹp bay lả tả xung quanh họ như một đàn chim chết. Khu rừng chết tiệt , Jon buồn rầu nghĩ. Đúng như người ta hay nói: Rừng thiêng nước độc.
Hắn hy vọng Sam đi phía sau vẫn còn trụ được. Sam vốn không phải là kỵ sĩ giỏi ngay trong thời tiết tốt, mà bây giờ, trải qua sáu ngày mưa liên tục, mặt đất trở nên trơn trượt, khắp nơi toàn bùn cùng đá ngầm. Mỗi khi gió thổi, nước mưa theo gió bay vào mắt. Băng tan hòa lẫn nước mưa đổ sông chảy về phía Nam khiến Bức Tường cũng có thể bị sụp. Pyp và Toad nhất định đang ngồi gần bếp lửa trong Phòng khách, nhấm nháp rượu bồ đào cho ấm bụng trước khi ăn. Jon thật ghen tị với họ. Bộ áo lông dê của hắn giờ dang ướt sũng, dính chặt vào người, cổ và vai thì đau đớn bởi sức nặng từ chiếc áo giáp và kiếm, và hắn đang phát ốm vì phải ăn cá tuyết muối, thịt bò muối và bánh mì cứng.
Phía trước một chiếc tù và phát lên âm thanh cảnh báo, những âm thanh đan chéo vào nhau biểu hiện sự cấp bách giữa cơn mưa. “Tiếng tù của Buckwell”, Old Bear tuyên bố, “các chư thần thật tốt, Craster vẫn còn ở đó.” Con quạ của ông cũng đập cánh, kêu lên tiếng “Ngô” trên bả vai và rồi lại rũ lông. Jon đã từng thường được nghe các huynh đệ kể các câu chuyện về Craster và pháo đài của ông. Giờ thì hắn có thể mắt thấy tai nghe. Sau khi chứng kiến bảy ngôi làng vườn không nhà trống, tất cả họ đều bắt đầu hoài nghi liệu pháo đài của Craster có trở thành tử địa như chúng, nhưng có vẻ như họ đã nghĩ lầm. Hắn nghĩ, có lẽ Old Bear cuối cùng cũng tìm được đáp án. Dù sao thì bọn họ cũng sắp thoát được cơn mưa.
Thoren Smallwood bảo đảm rằng Craster là một người bạn của Đội Tuần, dù thanh danh bất hảo. “Ta thừa nhận, người đàn ông đó là người nửa khùng nửa điên,” hắn từng kể với Old Bear, “nhưng ông cũng sẽ như thế nếu sống nửa đời người trong khu rừng sâu nước độc đó. Và ngay cả như thế thì ông ta cũng chưa bao giờ từ chối đón tiếp người của chúng ta, hay có cảm tình với Mance Rayder. Ông ấy luôn cho chúng ta những lời khuyên bổ ích.”
Ngày nào ông ta còn mời chúng ta bữa ăn nóng sốt và chỗ để phơi khô quần áo thì mình đều nghĩ tốt. Dywen nói Craster là một kẻ bất nhất, dối lừa, cường đạo và nhu nhược, ám chỉ rằng con người ông ta hòa lẫn giữa kẻ buôn nô lệ và ma quỷ. “Cái đáng sợ hơn là,” Dywen, kẻ đi rừng sành sỏi lầm bầm giữa những hàm răng giả, “luôn có một tia lạnh lẽo trong con người đó, đúng vậy đấy.”
“Jon,” đại nhân Mormont ra lệnh, “cưỡi ngựa về phía sau thông báo ọi người. Và nhắc họ rằng ta không muốn có bất kỳ rắc rối nào với các bà vợ của Craster. Họ phải chú ý đến tay chân mình và nói chuyện với đám đàn bà đó càng ít càng tốt.”
“Tuân lệnh, đại nhân,” Jon quay ngựa trở lại con đường họ vừa đi. Thật mừng khi nghĩ chỉ ít nữa thôi sẽ không phải mang mặt hứng mưa. Người nào hắn thấy cũng ướt nhẹp hết cả. Mà đấy là mới chỉ đi có nửa dặm trong rừng.
Tại bãi xe đựng quân nhu, Jon đi qua Samwell Tarly, đang đặt một đám cỏ trên yên ngựa. Hắn đang cưỡi một xe bò không móc và dẫn đầu một đám người. Tiếng mưa rơi lộp bộp trên những chuồng quạ khiến đám quạ ở trong kêu quàng quạc phản đối. “Cậu đưa một con cáo ở với bọn chúng à?” Jon bắt chuyện.
Sam ngẩng đầu lên, nước mưa chảy quanh vành nón. “Ồ, xin chào, Jon. Không. Chúng ghét mưa cũng như bọn mình.”
“Cậu thấy thế nào, Sam?”
“Ướt nhẹp,” thằng bé béo nhếch miệng lên cười, “nhưng không có gì nguy hiểm đến tính mạng.”
“Tốt rồi. Lâu đài của Craster ở ngay phía trước. Nếu các chư thần phù hộ thì ông ấy sẽ cho chúng ta ở nhờ qua đêm bên đống lửa ấm áp.”
Sam trông đầy nghi ngờ. “Dolorous Edd nói rằng Craster rất khủng khiếp. Hắn kết hôn với chính con gái mình và tự đưa ra luật riêng trái với quy tắc chung. Dywen còn kể với Grenn rằng ông ta có máu đen. Mẹ ông ta là một dã nhân ngủ với một kỵ sĩ vì vậy ông ta là con ho…” Đột nhiên hắn cảm thấy sượng.
“Một đứa con hoang,” Jon cười lớn, “cậu có thể nói câu đó, Sam. Tôi đã nghe nhiều trước đây rồi.” Hắn thúc ngựa tiến lên. “Tôi cần tìm Hiệp sĩ Ottyn. Nhớ đừng trêu trọc những người phụ nữ quanh Craster.” Hắn nói cứ như thể Samwell Tarly cần những lời cảnh báo ấy vậy. “Chúng ta sẽ nói chuyện tiếp sau khi hạ trại.”
Jon ghìm cương trước Hiệp sĩ Ottyn Wythers khi ông đang xuất lĩnh dẫn đầu đội bảo vệ. Đó là một người đàn ông thấp lùn, cùng niên kỷ với Mormont. Hiệp sĩ Ottyn luôn trông mệt mỏi, ngay cả khi ở Lâu Đài Đen (Castle Black) và cơn mưa rõ ràng đã “cọ rửa” ông ta một cách triệt để. “Tin tức thật tốt,” ông nói. “Sự ẩm ướt đã thấm vào đến tận xương ta, ngay cả cái yên ngựa cũng than phiền rồi.”
Trên đường quay lại, Jon tránh ột đoàn quân lớn đi qua, chọn con đường ngắn hơn đi qua khu rừng rậm. Âm thanh của người và ngựa xa dần, chìm trong sự hoang dã xanh ẩm ướt và rồi hắn nhanh chóng chỉ nghe thấy âm thanh của những giọt nước mưa rơi trên cành, lá và đá. Giờ mới là cuối giờ chiều, nhưng trong rừng đã bắt đầu tối. Jon tìm đường giữa các tảng đá và vũng nước, đi qua những cây sồi khổng lồ, những lính canh mặc đồ xanh xám và những cây gỗ cứng vỏ đen xù xì, những tán lá như những mái che khổng lồ giúp hắn tránh khỏi những hạt mưa nặng hạt rơi trên đầu. Khi hắn cưỡi ngựa vượt qua một cây hạt dẻ với những bụi hoa hồng trắng hoang dại, thì nghe thấy tiếng động dưới những bụi rậm. “Ghost,” hắn kêu lên, “Ghost, đến đây.”
Nhưng người chui ra hóa ra là Dywen, đang cưỡi chung một con ngựa lùn với Grenn. Old Bear thường phái hai tổ kỵ sĩ đi trinh sát cùng nhau, họ sẽ hỗ trợ nhau trong quá trình trinh sát, khi đụng độ với quân địch, và ngay cả khi có khả năng thất thủ thì cũng có ít nhất một người thoát được về để báo cáo tình hình.
“À, đại nhân Snow, là cậu,” Dywennhếch mép cười, hàm răng của ông được làm giả từ gỗ và trông bất đối xứng đến kỳ cục. “Ta và thằng bé này còn tưởng là gặp bọn Người Lạ. Thế nào, lạc mất con sói của cậu à?”
“Nó đang đi săn,” Ghost không thích đồng hành cùng đội quân, nhưng nó cũng không đi quá xa. Mỗi khi họ hạ trại về đêm, nó đều tìm được Jon ở trại của Tổng Tư Lệnh.
“Ta cho rằng nó đi bắt cá, chứ trời đất đầy nước thế này thì săn được gì,” Dywen nói.
“Mẹ tôi luôn nói rằng mưa giúp hoa màu phát triển tốt,” Grenn lạc quan chêm vào.
“Phải, nấm mốc cũng thế,” Dywen nói. “Điều tốt nhất mà một cơn mưa như thế này làm được là nó giúp người ta bớt thời gian tắm rửa,” ông ta cười phá ra nhe hàm răng gỗ.
“Buckwell đã tìm thấy Craster,” Jon kể với họ.
“Và có lạc mất ông ta không?” Dywen cười. “Có nghe thấy chuyện những người trẻ tuổi các cậu đừng có dại mà trêu trọc các bà vợ của Craster không?”
Jom mỉm cười. “Dywen, định một mình ông độc quyền hả?”
Dywen lại nhe răng cười. “Có lẽ ta đang định thế. Craster có mười ngón tay và chỉ một ‘thằng nhỏ’, vì vậy ông ta chỉ có thể đếm đến mười một. Mất vài ba người có lẽ ông ta không phát hiện ra đâu.”
“Thực ra thì ông ta có tất cả bao nhiêu vợ?” Grenn hỏi.
“Nhiều hơn cậu, người anh em. À, mà muốn có bao nhiêu vợ thì cậu sinh ra bấy nhiêu. Snow, con quái vật của cậu kia kìa.”
Ghost chạy tới gần con ngựa của Jon, đuôi dựng đứng, lớp lông trắng lộ ra vẻ dày dặn chống trọi với cơn mưa. Nó di chuyển yên lặng đến nỗi Jon không biết khi nào nó xuất hiện. Con ngựa của Grenn choáng váng khi ngửi thấy mùi của nó, dù đã hơn một năm nay, bọn ngựa vẫn không dễ dàng chấp nhận sự hiện diện của con sói vương này. “Theo tao, Ghost,” Jon hướng lâu đài của Craster đi tới.
Hắn chưa bao giờ nghĩ sẽ tìm thấy một lâu đài đá cách xa Tường Thành đến vậy, nhưng hắn đã tưởng tượng đến một khu rừng bao quanh và một tháp gỗ.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Sự thật hoàn toàn trái ngược, những gì họ tìm thấy là một bãi rác, một con lợn, một chuồng cừu trống không, một căn nhà đất sét không cửa sổ không đáng nhắc tới. Căn phòng vừa dài, vừa thấp, làm bằng gỗ thô, trên mái lợp cỏ. Cái ‘pháo đài’ này quả thật không xứng với một ngọn đồi, bao quanh bởi rãnh nước.
Những cơn mưa thường xuyên đã làm xói mòn đất từ đồi xuống con lạch gần đó khiến nó luôn có màu nâu đỏ chảy xuống phía Bắc. Mưa nhiều khiến phù sa đổ xuống nhiều làm con suối trở nên gập ghềnh.
Ở phía Tây Nam hắn tìm thấy một cánh cửa mở có cắm hai đầu lâu thú: Một bên là đầu con gấu, một bên đầu con cừu. Khi cưỡi ngựa đi qua, Jon để ý thấy vẫn còn ít thịt dính trên đầu con gấu. Phía bên trong, đội trinh sát của Jarmen Buckwell và đội tiên phong của Thoren Smallwood đã đem ngựa xếp thành hàng và dựng lều xong. Một chuồng lợn đã nhốt xong ba con lợn béo múp míp. Cạnh đó, một bé gái đang nhổ cà rốt trong vườn, trần truồng trong mưa, trong khi hai người phụ nữ khác đang chuẩn bị thịt lợn. Tiếng la hét chói tai khủng khiếp của đám động vật cứ như thể loài người đau khổ đến cùng cực khiến đám chó săn của Chett điên cuồng sủa lại, nhưng khi nhìn thấy Ghost thì mấy con chó cụp đuôi chạy mất, đám còn lại thì chỉ dám khẽ giọng gầm gừ. Con sói vương thì không thèm để ý đến chúng, như Jon vậy.
À, ba mươi người trong đám chúng ta giờ sẽ được ấm áp và khô ráo đây, Jon cẩn thận nhìn ngôi nhà và ra kết luận. Có lẽ ngôi nhà đó sẽ chứa được đến năm mươi người. Nơi này quá nhỏ để có thể chứa toàn bộ hai trăm người bọn họ, vì vậy đa số sẽ vẫn phải ở bên ngoài. Nhưng cần cho họ ở chỗ nào đây? Mưa đã khiến sân trở nên lầy lội, ngập đến mắt cá chân, bùn nhão nhoét. Có vẻ như đêm nay lại là đêm ảm đạm. Tổng tư lệnh đại nhân đã giao ngựa của mình cho Dolorous Edd. Khi Jon xuống ngựa thì thấy hắn đang bận rửa bùn cho con ngựa của tổng tư lệnh. “Đại nhân Mormont đang ở trong nhà,” hắn thông báo, “ông dặn cậu vào đó. Tốt nhất là để con sói ở ngoài, nó trông đói đến mức có thể ăn hết một trong những đứa con của Craster ấy. À, thật ra mà nói thì tôi cũng thế, nếu được ông ta nấu chúng thành súp nóng. Đi đi, tôi sẽ trông chừng con ngựa. Nếu bên trong có ấm áp và khô ráo thì đừng có kể gì cho tôi biết. Tôi cũng chẳng được mời vào đâu.” Hắn vừa nói vừa lấy lớp bùn ra khỏi móng ngựa. “Trông cái đống bùn này cứ như phân ấy nhỉ? Liệu có phải toàn bộ khu đồi này là phân của nhà Craster không?”
Jon mỉm cười. “À, tôi nghe nói ông ấy ở đây đã lâu lắm rồi.”
“Cậu đừng có chọc tôi nữa, đi gặp Old Bear đi.”
“Ghost, ở lại đây,” hắn ra lệnh. Cửa vào lâu đài của Craster được ghép từ hai mảnh da hươu. Jon vén cửa, khom lưng dưới thanh ngang bước vào. Trước mắt hắn là hai bốn kỵ sĩ thuộc hàng ngũ lãnh đạo đang đứng, ngồi quanh đống lửa ở trong tâm căn phòng bẩn thỉu trong khi dưới chân vẫn là những vũng nước. Căn phòng đầy mùi tro, phân và hôi. Không khí đặc quánh đầy khói nhưng vẫn ẩm ướt. Nước mưa nhỏ từ mái nhà qua lỗ thông khói. Ngôi nhà có một phòng duy nhất cộng với một phòng ngủ trên gác lửng được nối bằng một cái thang lập bập.
Jon nhớ đến nó đã cảm thấy thế nào vào ngay rời Tường Thành: lo lắng như một cô dâu sắp về nhà chồng nhưng khao khát khám phá những điều bí mật và diệu kỳ nơi chân trời xa lạ. À, đây chính là một trong những điều kỳ diệu, hắn tự nhủ, nhìn quanh căn phòng hôi rình và bẩn thỉu. Không khí đầy khói khiến mắt nó toét nước. Thật tiếc Pyp và Toad đã bỏ lỡ, không thấy những thứ này.
Craster ngồi cạnh bếp lửa, ông là người duy nhất thích chiếc ghế của mình. Ngay cả Tổng Tư Lệnh Mormont phải ngồi trên ghế dài với con vẹt đang thì tự lẩm bẩm trên vai. Jarman Buckwell đứng phía sau, nước chảy tong tỏng từ chỗ mẻ của áo giáp và chiếc áo da ẩm ướt sáng, Thoren Smallwood đứng bên cạnh, mặc chiếc áo giáp nặng nề và áo choàng lông chồn màu xám của Hiệp sĩ Jaremy trước đây.
Craster mặc chiếc áo khoác da cừu tồi tàn, cổ tay xơ xác, nhưng chiếc vòng nặng đeo ở cổ tay ánh lên ánh của vàng. Ông có vẻ là vẫn còn rất khỏe, dù bắt đầu bị ảnh hưởng bởi tuổi tác khiến mái tóc xám dần chuyển sang màu trắng. Chiếc mũi tẹt và cặp môi rủ xuống khiến ông trông có vẻ tàn bạo với một cái tai bị thiếu. Vậy ra đây là một dã nhân. Jon nhớ những câu chuyện của Vú Già kể về dân tộc tàn bạo với tục lệ uống máu từ sọ người. Craster có vẻ đang uống bia vàng óng từ một chiếc cốc đá. Có lẽ các câu chuyện này chỉ là bịa đặt.
“Đã ba năm nay ta không gặp Benjen Stark,” ông ta kể với Mormont, “và trung thực mà nói, ta chưa bao giờ nhớ hắn.” Khoảng nửa tá con chó nhỏ màu đen cùng một hai con lợn chạy giữa những dãy ghế, trong khi những phụ nữ trong chiếc áo da hoẵng rách tơi tả đi qua lại để đổi bia, cời lửa, cho cà rốt và hành tây vào nồi.
“Hắn đáng lẽ phải qua đây vào năm ngoái chứ,” Thoren Smallwood nói. Một con chó hít hít chân ông, ông hất chân đá nó khiến nó bay ra, rên rỉ.
Đại nhân Mormont nói: “Ben đang tìm Hiệp sĩ Waymar Royce, người đã biến mất cùng Gared và Will trẻ.”
“À, ta biết ba người đó. Viên quý tộc không lớn tuổi hơn những con chó ở đây, mặc chiếc áo choàng da chồn và đeo thanh kiếm đen, quá tự hào để phải ngủ dưới mái nhà ta. Các bà vợ ta tất cả đều cùng mở to đôi mắt nhìn hắn.” Ông ta quay lại nhìn chằm chằm vào người phụ nữ gần mình nhất. “Gared kể rằng bọn họ đang đuổi theo bọn cướp. Ta đã nói với hắn, là một tân chỉ huy thì tốt nhất đừng có bắt kịp họ. Gared không phải là một thằng ngu, hắn cũng bị mất hai tai cho quạ so với một tai của ta. Ta nhìn hắn rất muốn cười và nói ‘giống ta’.” Craster cười lớn. “Giờ thì ta nghe nói hắn mất luôn cả đầu. Không biết hắn trên tuyết sẽ như thế nào?”
Jon nhớ lại tia máu đỏ chói trên nền tuyết trắng và cái cách Theon Greyjoy đá cái đầu của người chết đó. Người đàn ông đó là một lính đảo ngũ. Trên đường quay lại Winterfell, Jon và Robb đã đua ngựa và tìm thấy sáu con sói vương trong tuyết. Chuyện như đã xảy ra cả ngàn năm trước.
“Khi hiệp sĩ Waymar rời khỏi đây thì hắn đi tiếp hướng nào?”
Craster nhún vai. “ Ta có nhiều thứ để làm hơn là để ý đến những con quạ đến và đi,” ông ta uống hết cốc bia và đặt nó sang bên cạnh. “Suốt cả năm nay không hề có rượu chuyển từ phương Nam tới. Ta thiếu rượu uống và phải làm một thanh rìu mới, cái cũ đã mẻ cùn và ta còn một đống vợ phải bảo vệ.” Ông ta nhìn chằm chằm vào những bà vợ quanh đó.
“Ở đây ông có ít người, lại biệt lập,” Mormont nói, “nếu ông muốn, tôi sẽ cử vài người hộ tống ông đi về phía Nam, qua Tường Thành.”
Con quạ dường như rất thích đề nghị này. “Tường Thành,” nó gào lên, vỗ phành phạch đôi cánh đen tạo gió trên đầu Mormont.
Gia chủ nở nụ cười dơ bẩn, lộ ra hàm răng vỡ vàng khè. “Và chúng ta sẽ làm gì ở đó? Phục vụ cơm nước cho ông à? Ở đây chúng ta là dân tự do. Craster không phục vụ bất kỳ ai.”
“Có những thời điểm rất khó khăn để sống đơn độc trong thế giới hoang dã. Gió lạnh đang thổi lên rồi.”
“Hãy để gió thổi. Căn cơ của ta rất sâu,” Craster đột nhiên vươn tay ôm em một phụ nữ đi qua đó. “Vợ ta, nói với ông ta, nói với Đại nhân Quạ (Crow) rằng chúng ta yêu thích nơi này bao nhiêu.”
Người phụ nữ liếm làn môi mỏng. “Đây là nơi của chúng ta. Craster sẽ bảo vệ chúng ta an toàn. Chết tự do còn hơn chết nô lệ.”
“Nô lệ.” Con quạ thì thầm.
Mormont nghiên người về phía trước. “Các làng mạc chúng ta đi qua đều bị bỏ hoang. Nơi của ông là nơi đầu tiên chúng ta thấy có sự sống từ khi rời Tường Thành đến nay. Ta không biết, người ta đã bỏ đi… hoặc bị chết, bỏ trốn hoặc bị bắt. Các con thú cũng vậy. Không còn gì hết. Trước đó chúng tôi cũng tìm thấy thi thể của hai trong số các kỵ sĩ đi cùng Ben Stark tại nơi gần Tường Thành. Thi thể của họ rất nhợt nhạt và lạnh lẽo, tay và chân đen xì, những vết thương không chảy máu. Nhưng khi chúng tôi đưa thi thể họ quay lại Lâu đài Đen (Castle Black) thì họ dựng dậy trong đêm và đi giết người. Một người đã giết chết Hiệp sĩ Jaremy Rykker và một người định giết ta, điều đó đã cho ta thấy rằng họ vẫn bảo lưu vào ký ức khi còn sống, nhưng không còn nhân tính.
Miệng người phụ nữ mở to, lộ ra một hang động màu hồng ẩm ướt, nhưng Craster chỉ hỉ mũi chế giễu. “Ở đây cũng ta không gặp những vấn đề kiểu đó… và ta sẽ cảm ơn ông nếu ông thôi kể những câu chuyện thần thoại kiểu đó dưới mái nhà ta. Ta là một người sùng đạo, và các chư thần sẽ bảo vệ chúng ta an toàn. Nếu những con ma sống đến, ta sẽ biết cách để gửi chúng lại hầm mộ. Phải tìm ai để thử chiếc rìu mới xem nó có sắc như thế nào chứ.” Ông ta đánh mạnh vào người bà vợ. “Lấy thêm bia và nhanh lên đấy.”
“Ông không sợ người chết,” Jarmen Buckwell nói, “nhưng còn người sống thì sao, đại nhân? Ông định nói gì với đức vua?”
“Vua!” Con quạ của Mormont kêu lên. “Vua, vua, vua.”
“Mance Rayder ấy hả.” Craster cời lửa. “Vua-ngoài-tường-thành. Dân tự do muốn làm gì với các nhà vua?” Ông liếc về phía Mormont. “Có nhiều thứ ta có thể kể với các ngươi về Rayder và những gì ông ta đang làm, nếu ta còn nhớ được.Những ngôi làng trống không này, đó là việc của ông ta. Nếu ta cũng là người dễ bị bắt nạt vậy thì giờ các ngươi cũng sẽ tìm thấy căn nhà bỏ hoang ở đây. Ông ta cử đến một kỵ sĩ nói với ta rằng ta phải rời lâu đài của mình để đi theo hắn. Ta đã đuổi tên đó về, chỉ giữ lại cái lưỡi của hắn. Ta đã đóng đinh nó vào tường.” Hàm răng vàng lại nhe ra. “Nhưng chúng ta sẽ dành nhiều thời gian để nói về về điều đó sau, hehe… giờ thì hẳn là các người rất muốn ngủ dưới mái nhà của ta, và có lẽ còn muốn ăn thịt con lợn của ta nữa.”
“Đại nhân, chúng tôi rất biết ơn có một mái nhà để chui vào,” Mormont nói, “chúng tôi đã cưỡi ngựa rất vất vả và ướt hết cả.”
“Vậy thì các người sẽ là khách ở đây đêm nay. Không lâu hơn. Ta không thích quạ. Ta và vợ sẽ ngủ phía trên, các ngươi có toàn bộ sàn dưới. Ta chỉ cung cấp thịt và bia cho hai mươi người, không hơn. Những con quạ đen còn lại sẽ phải tự mình đi mà ăn ngô mang theo.”
“Đại nhân, chúng tôi có mang theo thức ăn ình,” Old Bear nói. “Và chúng tôi rất vui được chia sẻ thức ăn và rượu của chúng tôi với ngài.”
Craster nâng mu bàn tay lông lá đen xì lên lau miệng. “Đại nhân Quạ, ta sẽ nếm thử rượu của ông. Còn một điều nữa, nếu bất kỳ ai đặt tay lên vợ ta thì hắn sẽ phải chia tay với cánh tay đó.”
“Hiên nhà ngài, luật của ngài,” Thoren Smallwood nói và đại nhân Mormont gật đầu đồng ý, dù không quá vui vẻ.
“Vậy thì cứ quyết định như thế đi,” Craster miễn cưỡng hừ một tiếng. “ Có người nào có thể vẽ bản đồ không?”
“Sam Tarly có thể,” Jon tiến lên, “Sam thích bản đồ.”
Mormont ra hiệu cho hắn tiến gần hơn. “Đưa hắn đến đây sau khi ăn xong. Bảo hắn mang theo giấy da và bút lông ngỗng. Và tìm thêm Tollett nữa. Nói hắn mang theo cây rìu của ta. Đó là món quà dành cho chủ nhà đây.”
“Hắn là ai?” Craster nói trước khi Jon rời đi. “Hắn có ánh mắt của nhà Stark.”
“Trợ lý của ta, Jon Snow.”
“Một đứa con hoang phải không?” Craster nhìn Jon từ trên xuống rồi từ dưới lên. “Nếu một người đàn ông muốn lên giường với một phụ nữ thì nên lấy cô ta làm vợ, đó là điều ta sẽ làm,” ông ta vẫy tay ra hiệu Jon rời đi. “À, đi làm việc của cậu đi, con hoang, và kiểm tra xem cây rìu có sắc và tốt không. Sắt rỉ không cho được cây rìu tốt.”
Jon Snow cúi đầu và rời đi. Hiệp sĩ Ottyn Wythers bước vào cùng lúc đó và họ thiếu chút nữa thì va vào nhau. Bên ngoài, mưa đã tạnh bớt, Dolorous Edd đang cho ngựa ăn ngoài lều. Jon có thể nhìn thấy những lều bạt đã được dựng xong dưới những tàng cây.
Dolourous Edd đang cho ngựa ăn. “Đưa một cây rìu cho tên dã nhân ấy, tại sao không nhỉ?” Hắn chỉ vào vũ khí của Mormont, một cây rìu chiến trận ngắn bằng nửa cây thường với hoa văn bằng vàng nổi bật trên lưỡi thép đen. “Tôi thề là lão sẽ trả lại nó thôi. Chỉ là sẽ ấn vào trong sọ của Old Bear, dù muốn hay không. Tại sao không đưa cho lão tất cả rìu của chúng ta luôn đi, cả kiếm nữa? Khi chúng ta cưỡi ngựa tôi không thích cách chúng đập vào nhau kêu loảng xoảng. Chúng ta sẽ di chuyển nhanh hơn nếu không có chúng, chạy thẳng đến địa ngục luôn. Mà tôi tự hỏi trời có mưa ở địa ngục không nhỉ? Biết đâu Craster thích một cái mũ đẹp thì sao?”
Jon mỉm cười. “Lão muốn một cây rìu, và rượu.”
“Thấy chưa, Old Bear thật thông minh. Nếu chúng ta chuốc cho tên dã nhân đó say mèm ra, chờ lão cố giết chúng ta bằng cây rìu đó có khi chỉ cắt được một lỗ tai. Tôi có hai lỗ tai nhưng chỉ có một cái đầu.”
“Smallwood nói rằng Craster là một người bạn của Đội Tuần.”
“Cậu có biết sự khác nhau một tên dã nhân – người bạn của Đội Tuần với tên dã nhân - không phải là người bạn của Đội Tuần không?” người lính hậu cần âm trầm hỏi.
“Kẻ thù của chúng ta bỏ thi thể cho những con quạ và sói. Bạn của chúng ta sẽ chôn cất thi thể chúng ta trong những ngôi mộ bí mật. Tôi tự hỏi mất con gấu đó đã bị treo trên cửa đó trong bao lâu rồi và Craster đã ở đó làm gì trước khi chúng ta đến đây gây ồn ào?” Edd nghi ngờ nhìn vào cây rìu. Mưa rơi trên khuôn mặt dài của hắn. “Trong đó có khô ráo không?”
“Khô ráo hơn bên ngoài.”
“Nếu tôi vào đó từ phía sau, không quá gần đống lửa, nói không chừng họ sẽ không chú ý đến tôi đến sáng mai ấy nhỉ. Tuy rằng đi vào căn nhà đó là những người lão ta giết trước tiên nhưng ít nhất chúng ta cũng được chết khô ráo.”
Jon phì cười. “Craster chỉ có một mình trong khi chúng ta có hai trăm người. Tôi không cho rằng hắn có thể giết hết tất cả chúng ta.”
“Cậu đang dỗ tôi đấy à,” Edd nói, khẩu trị trầm thấp đến cực điểm, “dù sao thì chết vì chiếc rìu sắc hôm nay vẫn nhiều quá. Tôi ghét phải bị giết bởi một chiếc chùy. Tôi đã chứng kiến một người bị chùy giết chết rồi. Da loét ra nhưng đầu bị dập, phình to như một quả bí, đỏ tím. Một người đàn ông trông tử tế thế mà chết thật xấu xí. Điều tốt là chúng ta không tặng lão những thanh chùy.” Edd vừa bỏ đi vừa lắc đầu, chiếc áo choàng đen ướt sũng.
Jon cho ngựa ăn trước khi dừng lại để nghĩ về bữa tối của chính mình. Hắn đang tự hỏi đi đâu tìm Sam thì nghe thấy một tiếng hét sợ hãi. “Sói!” Hắn vội vàng chạy thẳng vào trong nhà theo hướng tiến hét, không kịp rũ đất ra khỏi giày. Một trong những bà vợ của Craster dựa sát vào tường đắp bùn. “Cút đi,” cô ta quát Ghost. “Đừng lại đây!” Con sói vương đang cắp một con sói trong miệng và còn một con khác đầy máu nằm trước mặt nó. “Đại nhân, hãy mang nó đi đi,” bà ta nài nỉ khi nhìn thấy hắn.
“Nó sẽ không làm hại cô,” liếc mắt nhìn hắn đã hiểu chuyện gì đang xảy ra: một cái gậy gỗ, đầu gậy ướt, đám cỏ xung quanh bị đập nát. “Nó hẳn đã đói lắm. Chúng tôi đã không đi săn từ lâu,” Jon huýt sáo. Con sói vương bỏ con thỏ ra, nghiền những mảnh xương nhỏ trong miệng và tiến về phía hắn.
Người phụ nữ nhìn họ với ánh mắt lo lắng. Cô ta trông trẻ hơn hắn trông thấy lần đầu. Một cô gái khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi, hắn đoán, mái tóc đen lộn xộn xõa xuống khuôn mặt hốc hác dính đầy nước mưa, đôi chân trần dính đầy bùn. Cơ thể dưới làn áo da thú chắp vá kia cho thấy thấy cô ta đang mang thai. “Cô là một trong những con gái của Craster?” hắn hỏi.
Cô ta đặt một tay lên bụng. “Giờ là vợ,” đi dọc theo bức tường để né tránh con sói, cô ta quỳ xuống bên cạnh con thỏ bị thương. “Tôi đang cho cho thỏ ăn. Chúng tôi không nuôi cừu.”
“Đội Tuần sẽ bồi thường chúng cho cô,” Jon không có tiền riêng, nếu không nó đã đưa cho cô rồi… dù nó không chắc liệu tiền có tiêu được ngoài Tường Thành không. “Ngày mai tôi sẽ nói chuyện với Đại nhân Mormont.”
Cô ta chùi tay vào váy. “Đại nhân…”
“Tôi không phải đại nhân.”
Nhưng những người khác do nghe thấy tiếng hét của người phụ nữ và tiếng xương gãy của con thỏ đã chạy đến. “Đừng có tin hắn, cô gái,” Lark biệt danh Sisterman bởi tính đanh đá của hắn, kêu lên. “Hắn đích thị là đại nhân Snow.”
“Đứa con hoang của thành Winterfell và là anh trai của đức vua,” Chett móc máy, hắn đã rời những con chó săn của mình để xem có chuyện gì đang xảy ra.
“Con sói đó đang đói khát nhìn cô đó, cô gái,” Lark nói. “có lẽ nó muốn cắn một miếng thịt ngọt ngào của cô vào bụng.”
“Các người đang khiến cô ấy sợ,” Jon chẳng thích thú gì với những lời đùa đó.
“Chính xác hơn là đang cảnh cáo cô ta,” Chett nhe răng cười khiến bộ mặt xấu xí ghẻ lở thêm khó coi.
“Chúng tôi không nói chuyện với các người,” cô gái đột nhiên nhớ ra.
“Đợi đã,” Jon nói, nhưng đã quá muộn, cô gái đã chạy trốn.
Lark những muốn lấy phần con thỏ thứ hai nhưng Ghost nhanh hơn. Nó nhe răng dọa và Sisterman sợ quá trượt chân vào bùn ngã chổng vó. Những người khác cười phá lên. Con sói vương ngậm con thỏ vào miệng và mang nó đến cho Jon.
“Chúng ta không cần thiết phải hù dọa cô gái đó,” hắn nói với họ.
“Chúng ta không việc gì phải nghe lời ngươi, đồ con hoang,” Chett vẫn còn đổ lỗi cho Jon vì việc hắn mất công việc nhàn hạ bên cạnh Học sĩ Aemon, dù chuyện đó rõ ràng rất hợp lý. Nếu hắn không đến kể với Aemon về Sam Tarly, thì Chett vẫn tiếp tục chăm sóc ông già mù đó thay vì phải chăm sóc lũ chó săn cáu bẳn kia. “Mày có thể là thú cưng của Tổng tư lệnh đại nhân, nhưng không phải tổng tư lệnh… và nếu không có con quái vật kia thì mày còn lâu mới dám nói chuyện kiểu này.”
“Tôi sẽ không đánh nhau với huynh đệ mình khi chúng ta đang ở ngoài Tường Thành,” Jon trả lời, giọng lạnh lùng đến bất ngờ. Lark khởi động một chân. “Hắn sợ cậu, Chett, ở quần đảo Sisters, chúng ta có biệt danh cho những người như hắn.”
“Biệt danh nào mà tôi chẳng nghe qua. Cẩn thận đó.” Hắn rời đi, Ghost đi bên cạnh. Khi bước chân đến cổng, cơn mưa nặng hạt giờ đã chuyển thành mưa phùn. Trời đã gần như tối thẫm, một đêm ẩm ướt và lạnh lẽo đang chờ ở phía trước. Những đám mây che mất ánh trăng và ngôi sao, cùng ngọn đuốc của Mormont, biến khu rừng tối đen như dầu hắc ín. Nếu đúng như hắn lo lắng thì đêm nay ngay cả việc đi tiểu cũng sẽ biến thành cuộc phiêu lưu.
Gió mạnh cùng mưa quật lên mặt Jon khi hắn thúc ngựa vượt qua dòng suối nước dâng cao. Bên cạnh hắn lúc này, tổng tư lệnh Mormont giữ chặt chiếc mũ chùm đầu của áo choàng, miệng lầm bầm nguyền rủa thời tiết. Con quạ đang đậu trên vai ông, lông vũ xơ xác như bị nhúng nước và gắt gỏng như chính Hùng Lão (Old Bear). Một cơn gió nổi lên, những tán lá ướt nhẹp bay lả tả xung quanh họ như một đàn chim chết. Khu rừng chết tiệt , Jon buồn rầu nghĩ. Đúng như người ta hay nói: Rừng thiêng nước độc.
Hắn hy vọng Sam đi phía sau vẫn còn trụ được. Sam vốn không phải là kỵ sĩ giỏi ngay trong thời tiết tốt, mà bây giờ, trải qua sáu ngày mưa liên tục, mặt đất trở nên trơn trượt, khắp nơi toàn bùn cùng đá ngầm. Mỗi khi gió thổi, nước mưa theo gió bay vào mắt. Băng tan hòa lẫn nước mưa đổ sông chảy về phía Nam khiến Bức Tường cũng có thể bị sụp. Pyp và Toad nhất định đang ngồi gần bếp lửa trong Phòng khách, nhấm nháp rượu bồ đào cho ấm bụng trước khi ăn. Jon thật ghen tị với họ. Bộ áo lông dê của hắn giờ dang ướt sũng, dính chặt vào người, cổ và vai thì đau đớn bởi sức nặng từ chiếc áo giáp và kiếm, và hắn đang phát ốm vì phải ăn cá tuyết muối, thịt bò muối và bánh mì cứng.
Phía trước một chiếc tù và phát lên âm thanh cảnh báo, những âm thanh đan chéo vào nhau biểu hiện sự cấp bách giữa cơn mưa. “Tiếng tù của Buckwell”, Old Bear tuyên bố, “các chư thần thật tốt, Craster vẫn còn ở đó.” Con quạ của ông cũng đập cánh, kêu lên tiếng “Ngô” trên bả vai và rồi lại rũ lông. Jon đã từng thường được nghe các huynh đệ kể các câu chuyện về Craster và pháo đài của ông. Giờ thì hắn có thể mắt thấy tai nghe. Sau khi chứng kiến bảy ngôi làng vườn không nhà trống, tất cả họ đều bắt đầu hoài nghi liệu pháo đài của Craster có trở thành tử địa như chúng, nhưng có vẻ như họ đã nghĩ lầm. Hắn nghĩ, có lẽ Old Bear cuối cùng cũng tìm được đáp án. Dù sao thì bọn họ cũng sắp thoát được cơn mưa.
Thoren Smallwood bảo đảm rằng Craster là một người bạn của Đội Tuần, dù thanh danh bất hảo. “Ta thừa nhận, người đàn ông đó là người nửa khùng nửa điên,” hắn từng kể với Old Bear, “nhưng ông cũng sẽ như thế nếu sống nửa đời người trong khu rừng sâu nước độc đó. Và ngay cả như thế thì ông ta cũng chưa bao giờ từ chối đón tiếp người của chúng ta, hay có cảm tình với Mance Rayder. Ông ấy luôn cho chúng ta những lời khuyên bổ ích.”
Ngày nào ông ta còn mời chúng ta bữa ăn nóng sốt và chỗ để phơi khô quần áo thì mình đều nghĩ tốt. Dywen nói Craster là một kẻ bất nhất, dối lừa, cường đạo và nhu nhược, ám chỉ rằng con người ông ta hòa lẫn giữa kẻ buôn nô lệ và ma quỷ. “Cái đáng sợ hơn là,” Dywen, kẻ đi rừng sành sỏi lầm bầm giữa những hàm răng giả, “luôn có một tia lạnh lẽo trong con người đó, đúng vậy đấy.”
“Jon,” đại nhân Mormont ra lệnh, “cưỡi ngựa về phía sau thông báo ọi người. Và nhắc họ rằng ta không muốn có bất kỳ rắc rối nào với các bà vợ của Craster. Họ phải chú ý đến tay chân mình và nói chuyện với đám đàn bà đó càng ít càng tốt.”
“Tuân lệnh, đại nhân,” Jon quay ngựa trở lại con đường họ vừa đi. Thật mừng khi nghĩ chỉ ít nữa thôi sẽ không phải mang mặt hứng mưa. Người nào hắn thấy cũng ướt nhẹp hết cả. Mà đấy là mới chỉ đi có nửa dặm trong rừng.
Tại bãi xe đựng quân nhu, Jon đi qua Samwell Tarly, đang đặt một đám cỏ trên yên ngựa. Hắn đang cưỡi một xe bò không móc và dẫn đầu một đám người. Tiếng mưa rơi lộp bộp trên những chuồng quạ khiến đám quạ ở trong kêu quàng quạc phản đối. “Cậu đưa một con cáo ở với bọn chúng à?” Jon bắt chuyện.
Sam ngẩng đầu lên, nước mưa chảy quanh vành nón. “Ồ, xin chào, Jon. Không. Chúng ghét mưa cũng như bọn mình.”
“Cậu thấy thế nào, Sam?”
“Ướt nhẹp,” thằng bé béo nhếch miệng lên cười, “nhưng không có gì nguy hiểm đến tính mạng.”
“Tốt rồi. Lâu đài của Craster ở ngay phía trước. Nếu các chư thần phù hộ thì ông ấy sẽ cho chúng ta ở nhờ qua đêm bên đống lửa ấm áp.”
Sam trông đầy nghi ngờ. “Dolorous Edd nói rằng Craster rất khủng khiếp. Hắn kết hôn với chính con gái mình và tự đưa ra luật riêng trái với quy tắc chung. Dywen còn kể với Grenn rằng ông ta có máu đen. Mẹ ông ta là một dã nhân ngủ với một kỵ sĩ vì vậy ông ta là con ho…” Đột nhiên hắn cảm thấy sượng.
“Một đứa con hoang,” Jon cười lớn, “cậu có thể nói câu đó, Sam. Tôi đã nghe nhiều trước đây rồi.” Hắn thúc ngựa tiến lên. “Tôi cần tìm Hiệp sĩ Ottyn. Nhớ đừng trêu trọc những người phụ nữ quanh Craster.” Hắn nói cứ như thể Samwell Tarly cần những lời cảnh báo ấy vậy. “Chúng ta sẽ nói chuyện tiếp sau khi hạ trại.”
Jon ghìm cương trước Hiệp sĩ Ottyn Wythers khi ông đang xuất lĩnh dẫn đầu đội bảo vệ. Đó là một người đàn ông thấp lùn, cùng niên kỷ với Mormont. Hiệp sĩ Ottyn luôn trông mệt mỏi, ngay cả khi ở Lâu Đài Đen (Castle Black) và cơn mưa rõ ràng đã “cọ rửa” ông ta một cách triệt để. “Tin tức thật tốt,” ông nói. “Sự ẩm ướt đã thấm vào đến tận xương ta, ngay cả cái yên ngựa cũng than phiền rồi.”
Trên đường quay lại, Jon tránh ột đoàn quân lớn đi qua, chọn con đường ngắn hơn đi qua khu rừng rậm. Âm thanh của người và ngựa xa dần, chìm trong sự hoang dã xanh ẩm ướt và rồi hắn nhanh chóng chỉ nghe thấy âm thanh của những giọt nước mưa rơi trên cành, lá và đá. Giờ mới là cuối giờ chiều, nhưng trong rừng đã bắt đầu tối. Jon tìm đường giữa các tảng đá và vũng nước, đi qua những cây sồi khổng lồ, những lính canh mặc đồ xanh xám và những cây gỗ cứng vỏ đen xù xì, những tán lá như những mái che khổng lồ giúp hắn tránh khỏi những hạt mưa nặng hạt rơi trên đầu. Khi hắn cưỡi ngựa vượt qua một cây hạt dẻ với những bụi hoa hồng trắng hoang dại, thì nghe thấy tiếng động dưới những bụi rậm. “Ghost,” hắn kêu lên, “Ghost, đến đây.”
Nhưng người chui ra hóa ra là Dywen, đang cưỡi chung một con ngựa lùn với Grenn. Old Bear thường phái hai tổ kỵ sĩ đi trinh sát cùng nhau, họ sẽ hỗ trợ nhau trong quá trình trinh sát, khi đụng độ với quân địch, và ngay cả khi có khả năng thất thủ thì cũng có ít nhất một người thoát được về để báo cáo tình hình.
“À, đại nhân Snow, là cậu,” Dywennhếch mép cười, hàm răng của ông được làm giả từ gỗ và trông bất đối xứng đến kỳ cục. “Ta và thằng bé này còn tưởng là gặp bọn Người Lạ. Thế nào, lạc mất con sói của cậu à?”
“Nó đang đi săn,” Ghost không thích đồng hành cùng đội quân, nhưng nó cũng không đi quá xa. Mỗi khi họ hạ trại về đêm, nó đều tìm được Jon ở trại của Tổng Tư Lệnh.
“Ta cho rằng nó đi bắt cá, chứ trời đất đầy nước thế này thì săn được gì,” Dywen nói.
“Mẹ tôi luôn nói rằng mưa giúp hoa màu phát triển tốt,” Grenn lạc quan chêm vào.
“Phải, nấm mốc cũng thế,” Dywen nói. “Điều tốt nhất mà một cơn mưa như thế này làm được là nó giúp người ta bớt thời gian tắm rửa,” ông ta cười phá ra nhe hàm răng gỗ.
“Buckwell đã tìm thấy Craster,” Jon kể với họ.
“Và có lạc mất ông ta không?” Dywen cười. “Có nghe thấy chuyện những người trẻ tuổi các cậu đừng có dại mà trêu trọc các bà vợ của Craster không?”
Jom mỉm cười. “Dywen, định một mình ông độc quyền hả?”
Dywen lại nhe răng cười. “Có lẽ ta đang định thế. Craster có mười ngón tay và chỉ một ‘thằng nhỏ’, vì vậy ông ta chỉ có thể đếm đến mười một. Mất vài ba người có lẽ ông ta không phát hiện ra đâu.”
“Thực ra thì ông ta có tất cả bao nhiêu vợ?” Grenn hỏi.
“Nhiều hơn cậu, người anh em. À, mà muốn có bao nhiêu vợ thì cậu sinh ra bấy nhiêu. Snow, con quái vật của cậu kia kìa.”
Ghost chạy tới gần con ngựa của Jon, đuôi dựng đứng, lớp lông trắng lộ ra vẻ dày dặn chống trọi với cơn mưa. Nó di chuyển yên lặng đến nỗi Jon không biết khi nào nó xuất hiện. Con ngựa của Grenn choáng váng khi ngửi thấy mùi của nó, dù đã hơn một năm nay, bọn ngựa vẫn không dễ dàng chấp nhận sự hiện diện của con sói vương này. “Theo tao, Ghost,” Jon hướng lâu đài của Craster đi tới.
Hắn chưa bao giờ nghĩ sẽ tìm thấy một lâu đài đá cách xa Tường Thành đến vậy, nhưng hắn đã tưởng tượng đến một khu rừng bao quanh và một tháp gỗ.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Sự thật hoàn toàn trái ngược, những gì họ tìm thấy là một bãi rác, một con lợn, một chuồng cừu trống không, một căn nhà đất sét không cửa sổ không đáng nhắc tới. Căn phòng vừa dài, vừa thấp, làm bằng gỗ thô, trên mái lợp cỏ. Cái ‘pháo đài’ này quả thật không xứng với một ngọn đồi, bao quanh bởi rãnh nước.
Những cơn mưa thường xuyên đã làm xói mòn đất từ đồi xuống con lạch gần đó khiến nó luôn có màu nâu đỏ chảy xuống phía Bắc. Mưa nhiều khiến phù sa đổ xuống nhiều làm con suối trở nên gập ghềnh.
Ở phía Tây Nam hắn tìm thấy một cánh cửa mở có cắm hai đầu lâu thú: Một bên là đầu con gấu, một bên đầu con cừu. Khi cưỡi ngựa đi qua, Jon để ý thấy vẫn còn ít thịt dính trên đầu con gấu. Phía bên trong, đội trinh sát của Jarmen Buckwell và đội tiên phong của Thoren Smallwood đã đem ngựa xếp thành hàng và dựng lều xong. Một chuồng lợn đã nhốt xong ba con lợn béo múp míp. Cạnh đó, một bé gái đang nhổ cà rốt trong vườn, trần truồng trong mưa, trong khi hai người phụ nữ khác đang chuẩn bị thịt lợn. Tiếng la hét chói tai khủng khiếp của đám động vật cứ như thể loài người đau khổ đến cùng cực khiến đám chó săn của Chett điên cuồng sủa lại, nhưng khi nhìn thấy Ghost thì mấy con chó cụp đuôi chạy mất, đám còn lại thì chỉ dám khẽ giọng gầm gừ. Con sói vương thì không thèm để ý đến chúng, như Jon vậy.
À, ba mươi người trong đám chúng ta giờ sẽ được ấm áp và khô ráo đây, Jon cẩn thận nhìn ngôi nhà và ra kết luận. Có lẽ ngôi nhà đó sẽ chứa được đến năm mươi người. Nơi này quá nhỏ để có thể chứa toàn bộ hai trăm người bọn họ, vì vậy đa số sẽ vẫn phải ở bên ngoài. Nhưng cần cho họ ở chỗ nào đây? Mưa đã khiến sân trở nên lầy lội, ngập đến mắt cá chân, bùn nhão nhoét. Có vẻ như đêm nay lại là đêm ảm đạm. Tổng tư lệnh đại nhân đã giao ngựa của mình cho Dolorous Edd. Khi Jon xuống ngựa thì thấy hắn đang bận rửa bùn cho con ngựa của tổng tư lệnh. “Đại nhân Mormont đang ở trong nhà,” hắn thông báo, “ông dặn cậu vào đó. Tốt nhất là để con sói ở ngoài, nó trông đói đến mức có thể ăn hết một trong những đứa con của Craster ấy. À, thật ra mà nói thì tôi cũng thế, nếu được ông ta nấu chúng thành súp nóng. Đi đi, tôi sẽ trông chừng con ngựa. Nếu bên trong có ấm áp và khô ráo thì đừng có kể gì cho tôi biết. Tôi cũng chẳng được mời vào đâu.” Hắn vừa nói vừa lấy lớp bùn ra khỏi móng ngựa. “Trông cái đống bùn này cứ như phân ấy nhỉ? Liệu có phải toàn bộ khu đồi này là phân của nhà Craster không?”
Jon mỉm cười. “À, tôi nghe nói ông ấy ở đây đã lâu lắm rồi.”
“Cậu đừng có chọc tôi nữa, đi gặp Old Bear đi.”
“Ghost, ở lại đây,” hắn ra lệnh. Cửa vào lâu đài của Craster được ghép từ hai mảnh da hươu. Jon vén cửa, khom lưng dưới thanh ngang bước vào. Trước mắt hắn là hai bốn kỵ sĩ thuộc hàng ngũ lãnh đạo đang đứng, ngồi quanh đống lửa ở trong tâm căn phòng bẩn thỉu trong khi dưới chân vẫn là những vũng nước. Căn phòng đầy mùi tro, phân và hôi. Không khí đặc quánh đầy khói nhưng vẫn ẩm ướt. Nước mưa nhỏ từ mái nhà qua lỗ thông khói. Ngôi nhà có một phòng duy nhất cộng với một phòng ngủ trên gác lửng được nối bằng một cái thang lập bập.
Jon nhớ đến nó đã cảm thấy thế nào vào ngay rời Tường Thành: lo lắng như một cô dâu sắp về nhà chồng nhưng khao khát khám phá những điều bí mật và diệu kỳ nơi chân trời xa lạ. À, đây chính là một trong những điều kỳ diệu, hắn tự nhủ, nhìn quanh căn phòng hôi rình và bẩn thỉu. Không khí đầy khói khiến mắt nó toét nước. Thật tiếc Pyp và Toad đã bỏ lỡ, không thấy những thứ này.
Craster ngồi cạnh bếp lửa, ông là người duy nhất thích chiếc ghế của mình. Ngay cả Tổng Tư Lệnh Mormont phải ngồi trên ghế dài với con vẹt đang thì tự lẩm bẩm trên vai. Jarman Buckwell đứng phía sau, nước chảy tong tỏng từ chỗ mẻ của áo giáp và chiếc áo da ẩm ướt sáng, Thoren Smallwood đứng bên cạnh, mặc chiếc áo giáp nặng nề và áo choàng lông chồn màu xám của Hiệp sĩ Jaremy trước đây.
Craster mặc chiếc áo khoác da cừu tồi tàn, cổ tay xơ xác, nhưng chiếc vòng nặng đeo ở cổ tay ánh lên ánh của vàng. Ông có vẻ là vẫn còn rất khỏe, dù bắt đầu bị ảnh hưởng bởi tuổi tác khiến mái tóc xám dần chuyển sang màu trắng. Chiếc mũi tẹt và cặp môi rủ xuống khiến ông trông có vẻ tàn bạo với một cái tai bị thiếu. Vậy ra đây là một dã nhân. Jon nhớ những câu chuyện của Vú Già kể về dân tộc tàn bạo với tục lệ uống máu từ sọ người. Craster có vẻ đang uống bia vàng óng từ một chiếc cốc đá. Có lẽ các câu chuyện này chỉ là bịa đặt.
“Đã ba năm nay ta không gặp Benjen Stark,” ông ta kể với Mormont, “và trung thực mà nói, ta chưa bao giờ nhớ hắn.” Khoảng nửa tá con chó nhỏ màu đen cùng một hai con lợn chạy giữa những dãy ghế, trong khi những phụ nữ trong chiếc áo da hoẵng rách tơi tả đi qua lại để đổi bia, cời lửa, cho cà rốt và hành tây vào nồi.
“Hắn đáng lẽ phải qua đây vào năm ngoái chứ,” Thoren Smallwood nói. Một con chó hít hít chân ông, ông hất chân đá nó khiến nó bay ra, rên rỉ.
Đại nhân Mormont nói: “Ben đang tìm Hiệp sĩ Waymar Royce, người đã biến mất cùng Gared và Will trẻ.”
“À, ta biết ba người đó. Viên quý tộc không lớn tuổi hơn những con chó ở đây, mặc chiếc áo choàng da chồn và đeo thanh kiếm đen, quá tự hào để phải ngủ dưới mái nhà ta. Các bà vợ ta tất cả đều cùng mở to đôi mắt nhìn hắn.” Ông ta quay lại nhìn chằm chằm vào người phụ nữ gần mình nhất. “Gared kể rằng bọn họ đang đuổi theo bọn cướp. Ta đã nói với hắn, là một tân chỉ huy thì tốt nhất đừng có bắt kịp họ. Gared không phải là một thằng ngu, hắn cũng bị mất hai tai cho quạ so với một tai của ta. Ta nhìn hắn rất muốn cười và nói ‘giống ta’.” Craster cười lớn. “Giờ thì ta nghe nói hắn mất luôn cả đầu. Không biết hắn trên tuyết sẽ như thế nào?”
Jon nhớ lại tia máu đỏ chói trên nền tuyết trắng và cái cách Theon Greyjoy đá cái đầu của người chết đó. Người đàn ông đó là một lính đảo ngũ. Trên đường quay lại Winterfell, Jon và Robb đã đua ngựa và tìm thấy sáu con sói vương trong tuyết. Chuyện như đã xảy ra cả ngàn năm trước.
“Khi hiệp sĩ Waymar rời khỏi đây thì hắn đi tiếp hướng nào?”
Craster nhún vai. “ Ta có nhiều thứ để làm hơn là để ý đến những con quạ đến và đi,” ông ta uống hết cốc bia và đặt nó sang bên cạnh. “Suốt cả năm nay không hề có rượu chuyển từ phương Nam tới. Ta thiếu rượu uống và phải làm một thanh rìu mới, cái cũ đã mẻ cùn và ta còn một đống vợ phải bảo vệ.” Ông ta nhìn chằm chằm vào những bà vợ quanh đó.
“Ở đây ông có ít người, lại biệt lập,” Mormont nói, “nếu ông muốn, tôi sẽ cử vài người hộ tống ông đi về phía Nam, qua Tường Thành.”
Con quạ dường như rất thích đề nghị này. “Tường Thành,” nó gào lên, vỗ phành phạch đôi cánh đen tạo gió trên đầu Mormont.
Gia chủ nở nụ cười dơ bẩn, lộ ra hàm răng vỡ vàng khè. “Và chúng ta sẽ làm gì ở đó? Phục vụ cơm nước cho ông à? Ở đây chúng ta là dân tự do. Craster không phục vụ bất kỳ ai.”
“Có những thời điểm rất khó khăn để sống đơn độc trong thế giới hoang dã. Gió lạnh đang thổi lên rồi.”
“Hãy để gió thổi. Căn cơ của ta rất sâu,” Craster đột nhiên vươn tay ôm em một phụ nữ đi qua đó. “Vợ ta, nói với ông ta, nói với Đại nhân Quạ (Crow) rằng chúng ta yêu thích nơi này bao nhiêu.”
Người phụ nữ liếm làn môi mỏng. “Đây là nơi của chúng ta. Craster sẽ bảo vệ chúng ta an toàn. Chết tự do còn hơn chết nô lệ.”
“Nô lệ.” Con quạ thì thầm.
Mormont nghiên người về phía trước. “Các làng mạc chúng ta đi qua đều bị bỏ hoang. Nơi của ông là nơi đầu tiên chúng ta thấy có sự sống từ khi rời Tường Thành đến nay. Ta không biết, người ta đã bỏ đi… hoặc bị chết, bỏ trốn hoặc bị bắt. Các con thú cũng vậy. Không còn gì hết. Trước đó chúng tôi cũng tìm thấy thi thể của hai trong số các kỵ sĩ đi cùng Ben Stark tại nơi gần Tường Thành. Thi thể của họ rất nhợt nhạt và lạnh lẽo, tay và chân đen xì, những vết thương không chảy máu. Nhưng khi chúng tôi đưa thi thể họ quay lại Lâu đài Đen (Castle Black) thì họ dựng dậy trong đêm và đi giết người. Một người đã giết chết Hiệp sĩ Jaremy Rykker và một người định giết ta, điều đó đã cho ta thấy rằng họ vẫn bảo lưu vào ký ức khi còn sống, nhưng không còn nhân tính.
Miệng người phụ nữ mở to, lộ ra một hang động màu hồng ẩm ướt, nhưng Craster chỉ hỉ mũi chế giễu. “Ở đây cũng ta không gặp những vấn đề kiểu đó… và ta sẽ cảm ơn ông nếu ông thôi kể những câu chuyện thần thoại kiểu đó dưới mái nhà ta. Ta là một người sùng đạo, và các chư thần sẽ bảo vệ chúng ta an toàn. Nếu những con ma sống đến, ta sẽ biết cách để gửi chúng lại hầm mộ. Phải tìm ai để thử chiếc rìu mới xem nó có sắc như thế nào chứ.” Ông ta đánh mạnh vào người bà vợ. “Lấy thêm bia và nhanh lên đấy.”
“Ông không sợ người chết,” Jarmen Buckwell nói, “nhưng còn người sống thì sao, đại nhân? Ông định nói gì với đức vua?”
“Vua!” Con quạ của Mormont kêu lên. “Vua, vua, vua.”
“Mance Rayder ấy hả.” Craster cời lửa. “Vua-ngoài-tường-thành. Dân tự do muốn làm gì với các nhà vua?” Ông liếc về phía Mormont. “Có nhiều thứ ta có thể kể với các ngươi về Rayder và những gì ông ta đang làm, nếu ta còn nhớ được.Những ngôi làng trống không này, đó là việc của ông ta. Nếu ta cũng là người dễ bị bắt nạt vậy thì giờ các ngươi cũng sẽ tìm thấy căn nhà bỏ hoang ở đây. Ông ta cử đến một kỵ sĩ nói với ta rằng ta phải rời lâu đài của mình để đi theo hắn. Ta đã đuổi tên đó về, chỉ giữ lại cái lưỡi của hắn. Ta đã đóng đinh nó vào tường.” Hàm răng vàng lại nhe ra. “Nhưng chúng ta sẽ dành nhiều thời gian để nói về về điều đó sau, hehe… giờ thì hẳn là các người rất muốn ngủ dưới mái nhà của ta, và có lẽ còn muốn ăn thịt con lợn của ta nữa.”
“Đại nhân, chúng tôi rất biết ơn có một mái nhà để chui vào,” Mormont nói, “chúng tôi đã cưỡi ngựa rất vất vả và ướt hết cả.”
“Vậy thì các người sẽ là khách ở đây đêm nay. Không lâu hơn. Ta không thích quạ. Ta và vợ sẽ ngủ phía trên, các ngươi có toàn bộ sàn dưới. Ta chỉ cung cấp thịt và bia cho hai mươi người, không hơn. Những con quạ đen còn lại sẽ phải tự mình đi mà ăn ngô mang theo.”
“Đại nhân, chúng tôi có mang theo thức ăn ình,” Old Bear nói. “Và chúng tôi rất vui được chia sẻ thức ăn và rượu của chúng tôi với ngài.”
Craster nâng mu bàn tay lông lá đen xì lên lau miệng. “Đại nhân Quạ, ta sẽ nếm thử rượu của ông. Còn một điều nữa, nếu bất kỳ ai đặt tay lên vợ ta thì hắn sẽ phải chia tay với cánh tay đó.”
“Hiên nhà ngài, luật của ngài,” Thoren Smallwood nói và đại nhân Mormont gật đầu đồng ý, dù không quá vui vẻ.
“Vậy thì cứ quyết định như thế đi,” Craster miễn cưỡng hừ một tiếng. “ Có người nào có thể vẽ bản đồ không?”
“Sam Tarly có thể,” Jon tiến lên, “Sam thích bản đồ.”
Mormont ra hiệu cho hắn tiến gần hơn. “Đưa hắn đến đây sau khi ăn xong. Bảo hắn mang theo giấy da và bút lông ngỗng. Và tìm thêm Tollett nữa. Nói hắn mang theo cây rìu của ta. Đó là món quà dành cho chủ nhà đây.”
“Hắn là ai?” Craster nói trước khi Jon rời đi. “Hắn có ánh mắt của nhà Stark.”
“Trợ lý của ta, Jon Snow.”
“Một đứa con hoang phải không?” Craster nhìn Jon từ trên xuống rồi từ dưới lên. “Nếu một người đàn ông muốn lên giường với một phụ nữ thì nên lấy cô ta làm vợ, đó là điều ta sẽ làm,” ông ta vẫy tay ra hiệu Jon rời đi. “À, đi làm việc của cậu đi, con hoang, và kiểm tra xem cây rìu có sắc và tốt không. Sắt rỉ không cho được cây rìu tốt.”
Jon Snow cúi đầu và rời đi. Hiệp sĩ Ottyn Wythers bước vào cùng lúc đó và họ thiếu chút nữa thì va vào nhau. Bên ngoài, mưa đã tạnh bớt, Dolorous Edd đang cho ngựa ăn ngoài lều. Jon có thể nhìn thấy những lều bạt đã được dựng xong dưới những tàng cây.
Dolourous Edd đang cho ngựa ăn. “Đưa một cây rìu cho tên dã nhân ấy, tại sao không nhỉ?” Hắn chỉ vào vũ khí của Mormont, một cây rìu chiến trận ngắn bằng nửa cây thường với hoa văn bằng vàng nổi bật trên lưỡi thép đen. “Tôi thề là lão sẽ trả lại nó thôi. Chỉ là sẽ ấn vào trong sọ của Old Bear, dù muốn hay không. Tại sao không đưa cho lão tất cả rìu của chúng ta luôn đi, cả kiếm nữa? Khi chúng ta cưỡi ngựa tôi không thích cách chúng đập vào nhau kêu loảng xoảng. Chúng ta sẽ di chuyển nhanh hơn nếu không có chúng, chạy thẳng đến địa ngục luôn. Mà tôi tự hỏi trời có mưa ở địa ngục không nhỉ? Biết đâu Craster thích một cái mũ đẹp thì sao?”
Jon mỉm cười. “Lão muốn một cây rìu, và rượu.”
“Thấy chưa, Old Bear thật thông minh. Nếu chúng ta chuốc cho tên dã nhân đó say mèm ra, chờ lão cố giết chúng ta bằng cây rìu đó có khi chỉ cắt được một lỗ tai. Tôi có hai lỗ tai nhưng chỉ có một cái đầu.”
“Smallwood nói rằng Craster là một người bạn của Đội Tuần.”
“Cậu có biết sự khác nhau một tên dã nhân – người bạn của Đội Tuần với tên dã nhân - không phải là người bạn của Đội Tuần không?” người lính hậu cần âm trầm hỏi.
“Kẻ thù của chúng ta bỏ thi thể cho những con quạ và sói. Bạn của chúng ta sẽ chôn cất thi thể chúng ta trong những ngôi mộ bí mật. Tôi tự hỏi mất con gấu đó đã bị treo trên cửa đó trong bao lâu rồi và Craster đã ở đó làm gì trước khi chúng ta đến đây gây ồn ào?” Edd nghi ngờ nhìn vào cây rìu. Mưa rơi trên khuôn mặt dài của hắn. “Trong đó có khô ráo không?”
“Khô ráo hơn bên ngoài.”
“Nếu tôi vào đó từ phía sau, không quá gần đống lửa, nói không chừng họ sẽ không chú ý đến tôi đến sáng mai ấy nhỉ. Tuy rằng đi vào căn nhà đó là những người lão ta giết trước tiên nhưng ít nhất chúng ta cũng được chết khô ráo.”
Jon phì cười. “Craster chỉ có một mình trong khi chúng ta có hai trăm người. Tôi không cho rằng hắn có thể giết hết tất cả chúng ta.”
“Cậu đang dỗ tôi đấy à,” Edd nói, khẩu trị trầm thấp đến cực điểm, “dù sao thì chết vì chiếc rìu sắc hôm nay vẫn nhiều quá. Tôi ghét phải bị giết bởi một chiếc chùy. Tôi đã chứng kiến một người bị chùy giết chết rồi. Da loét ra nhưng đầu bị dập, phình to như một quả bí, đỏ tím. Một người đàn ông trông tử tế thế mà chết thật xấu xí. Điều tốt là chúng ta không tặng lão những thanh chùy.” Edd vừa bỏ đi vừa lắc đầu, chiếc áo choàng đen ướt sũng.
Jon cho ngựa ăn trước khi dừng lại để nghĩ về bữa tối của chính mình. Hắn đang tự hỏi đi đâu tìm Sam thì nghe thấy một tiếng hét sợ hãi. “Sói!” Hắn vội vàng chạy thẳng vào trong nhà theo hướng tiến hét, không kịp rũ đất ra khỏi giày. Một trong những bà vợ của Craster dựa sát vào tường đắp bùn. “Cút đi,” cô ta quát Ghost. “Đừng lại đây!” Con sói vương đang cắp một con sói trong miệng và còn một con khác đầy máu nằm trước mặt nó. “Đại nhân, hãy mang nó đi đi,” bà ta nài nỉ khi nhìn thấy hắn.
“Nó sẽ không làm hại cô,” liếc mắt nhìn hắn đã hiểu chuyện gì đang xảy ra: một cái gậy gỗ, đầu gậy ướt, đám cỏ xung quanh bị đập nát. “Nó hẳn đã đói lắm. Chúng tôi đã không đi săn từ lâu,” Jon huýt sáo. Con sói vương bỏ con thỏ ra, nghiền những mảnh xương nhỏ trong miệng và tiến về phía hắn.
Người phụ nữ nhìn họ với ánh mắt lo lắng. Cô ta trông trẻ hơn hắn trông thấy lần đầu. Một cô gái khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi, hắn đoán, mái tóc đen lộn xộn xõa xuống khuôn mặt hốc hác dính đầy nước mưa, đôi chân trần dính đầy bùn. Cơ thể dưới làn áo da thú chắp vá kia cho thấy thấy cô ta đang mang thai. “Cô là một trong những con gái của Craster?” hắn hỏi.
Cô ta đặt một tay lên bụng. “Giờ là vợ,” đi dọc theo bức tường để né tránh con sói, cô ta quỳ xuống bên cạnh con thỏ bị thương. “Tôi đang cho cho thỏ ăn. Chúng tôi không nuôi cừu.”
“Đội Tuần sẽ bồi thường chúng cho cô,” Jon không có tiền riêng, nếu không nó đã đưa cho cô rồi… dù nó không chắc liệu tiền có tiêu được ngoài Tường Thành không. “Ngày mai tôi sẽ nói chuyện với Đại nhân Mormont.”
Cô ta chùi tay vào váy. “Đại nhân…”
“Tôi không phải đại nhân.”
Nhưng những người khác do nghe thấy tiếng hét của người phụ nữ và tiếng xương gãy của con thỏ đã chạy đến. “Đừng có tin hắn, cô gái,” Lark biệt danh Sisterman bởi tính đanh đá của hắn, kêu lên. “Hắn đích thị là đại nhân Snow.”
“Đứa con hoang của thành Winterfell và là anh trai của đức vua,” Chett móc máy, hắn đã rời những con chó săn của mình để xem có chuyện gì đang xảy ra.
“Con sói đó đang đói khát nhìn cô đó, cô gái,” Lark nói. “có lẽ nó muốn cắn một miếng thịt ngọt ngào của cô vào bụng.”
“Các người đang khiến cô ấy sợ,” Jon chẳng thích thú gì với những lời đùa đó.
“Chính xác hơn là đang cảnh cáo cô ta,” Chett nhe răng cười khiến bộ mặt xấu xí ghẻ lở thêm khó coi.
“Chúng tôi không nói chuyện với các người,” cô gái đột nhiên nhớ ra.
“Đợi đã,” Jon nói, nhưng đã quá muộn, cô gái đã chạy trốn.
Lark những muốn lấy phần con thỏ thứ hai nhưng Ghost nhanh hơn. Nó nhe răng dọa và Sisterman sợ quá trượt chân vào bùn ngã chổng vó. Những người khác cười phá lên. Con sói vương ngậm con thỏ vào miệng và mang nó đến cho Jon.
“Chúng ta không cần thiết phải hù dọa cô gái đó,” hắn nói với họ.
“Chúng ta không việc gì phải nghe lời ngươi, đồ con hoang,” Chett vẫn còn đổ lỗi cho Jon vì việc hắn mất công việc nhàn hạ bên cạnh Học sĩ Aemon, dù chuyện đó rõ ràng rất hợp lý. Nếu hắn không đến kể với Aemon về Sam Tarly, thì Chett vẫn tiếp tục chăm sóc ông già mù đó thay vì phải chăm sóc lũ chó săn cáu bẳn kia. “Mày có thể là thú cưng của Tổng tư lệnh đại nhân, nhưng không phải tổng tư lệnh… và nếu không có con quái vật kia thì mày còn lâu mới dám nói chuyện kiểu này.”
“Tôi sẽ không đánh nhau với huynh đệ mình khi chúng ta đang ở ngoài Tường Thành,” Jon trả lời, giọng lạnh lùng đến bất ngờ. Lark khởi động một chân. “Hắn sợ cậu, Chett, ở quần đảo Sisters, chúng ta có biệt danh cho những người như hắn.”
“Biệt danh nào mà tôi chẳng nghe qua. Cẩn thận đó.” Hắn rời đi, Ghost đi bên cạnh. Khi bước chân đến cổng, cơn mưa nặng hạt giờ đã chuyển thành mưa phùn. Trời đã gần như tối thẫm, một đêm ẩm ướt và lạnh lẽo đang chờ ở phía trước. Những đám mây che mất ánh trăng và ngôi sao, cùng ngọn đuốc của Mormont, biến khu rừng tối đen như dầu hắc ín. Nếu đúng như hắn lo lắng thì đêm nay ngay cả việc đi tiểu cũng sẽ biến thành cuộc phiêu lưu.
Danh sách chương