CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Đuôi sao chổi xoẹt qua bầu trời buổi bình minh, giống như một vết thương trên trời tím sẫm, một vết kiếm rạch đỏ chói lên các vách núi của đảo Dragonstone.
Viên học sĩ đứng lặng người ngoài ban công phòng ngủ trong tiếng gió thét gào. Nơi đây là điểm dừng chân của những con quạ sau một quãng đường bay dài. Phân của chúng lốm đốm trên những bức tượng quỷ hai bên sườn ười hai feet, một bên là tượng khuyển ngục (hellhound), một bên là rồng bay (wyvern), hai trong hàng ngàn con được tạo hình trên bức tường thành cổ xưa. Khi ông lần đầu tiên đến đảo Dragonstone, đội quân tượng đá kỳ cục này đã khiến ông cảm thấy bất an, nhưng năm tháng qua đi và ông dần quen với sự có mặt của chúng. Giờ thì ông nghĩ chúng như những người bạn cũ và ba người bọn họ đang cùng sóng vai nhìn bầu trời với tâm trạng lo sợ.
Viên học sĩ vốn không tin vào điềm báo. Nhưng… sống đến từng này tuổi, Cressen chưa bao giờ nhìn thấy đuôi sao chổi nào sáng như thế, hay có màu như thế, cái màu khủng khiếp, màu của máu tươi, lửa cháy và mặt trời lặn. Ông tự hỏi liệu những bức tượng quỷ - bạn của ông - cũng đã từng chứng kiến cảnh này hay chưa, dù sao thì chúng cũng có mặt ở đây trước ông, và sẽ còn ở đây lâu nữa sau khi ông rời đi. Nếu đá có thể nói chuyện…
Thật hoang đường. Ông dựa người trên mặt thành, gió biển vẫn tiếp tục thét gào bên dưới, mặt đá đen lạo xạo dưới những ngón tay. Nói chuyện về các bức tượng quỷ và những dấu hiệu trên bầu trời ư? Mình đúng trở thành một lão già rồi, lại phù phiếm như một đứa trẻ. Chả lẽ nửa đời khôn ngoan và từng trải của mình đã trôi qua sao? Ông là một học sĩ, được huấn luyện tại nhà Citadel vĩ đại của Oldtown, hiện lại mê tín như đầu óc của nông dân thì còn làm được cái gì?
Chính là… chính là… ngay cả ban ngày cũng thấy đuôi sao chổi cháy rực, trong khi hơi nước xám xịt không ngừng bốc lên từ lỗ thông hơi của mạch suối Dragon phía sau lâu đài, và ngay trong sáng qua một con quạ trăng đã mang tin tức từ Citadel đến, tin tức này ông từ lâu vừa mong đợi vừa sợ hãi: Mùa hè đã kết thúc. Cả những dấu hiệu điềm báo cũng cho thấy điều đó. Có quá nhiều dấu hiệu khiến ông không thể phủ nhận. Nhưng hết thảy những điềm báo này tột cùng có nghĩa là gì? Ông quả thực muốn khóc.
“Học sĩ Cressen, chúng ta có khách,” Pylos nhẹ giọng như thể không muốn quấy rầy khoảnh khắc trầm tư của Cressen. Giá anh biết được những gì đang diễn ra trong đầu ông, anh chắc chắn sẽ khóc thét: “Công chúa muốn thăm con quạ trắng đó”. Vì Cha bé xưng vương nên Pylos đã sửa cách gọi bé là công chúa. Dù chỉ là vua của một hòn đảo đá nằm chơ vơ giữa mặt biển mênh mông nhưng dù sao cũng là vua. “Tên cận thần ngu ngốc cũng đến cùng cô ấy.”
Lão học sĩ xoay người khỏi ban công, tay vẫn vịn vào con rồng đá. “Đỡ ta ngồi xuống, sau đó mời họ vào.”
Cầm tay ông, Pylos dẫn ông vào trong phòng. Thời trẻ Cressen vốn là người nhanh nhẹn, nhưng giờ ông đã gần tám mươi tuổi, hai chân trở nên yếu ớt. Hai năm trước ông bị vỡ một bên hông do ngã và vết thương đó không bao giờ phục hồi hoàn toàn. Năm trước khi ông ngã bệnh, nhà Citadel đã gửi Pylos từ Oldtown đến đây vừa vặn vài ngày trước khi Lãnh chúa Stannis ra lệnh phong tỏa đảo… để giúp ông xử lý sự vụ, đấy là người ta nói thế, nhưng Cressen biết thâm ý đằng sau. Pylos đến thay vai trò của ông khi ông qua đời. Ông cũng không để ý đến điều này. Trước sau gì cũng phải có ai đó thay vị trí của ông, nhưng ông không nghĩ nó sớm thế này.
Ông để cho anh chàng trẻ tuổi dắt mình đến bàn, trên bàn đầy giấy và sách “Mời cô ấy vào, đừng để một tiểu thư đợi quá lâu,” ông vẫy tay vô lực ra hiệu không thể chờ đợi tiếp. Bàn tay da nhăn nheo như một tờ giấy nhàu nát, bên dưới nhìn rõ những mạch máu khô. Nhìn bàn tay run rẩy ấy, không ai có thể tưởng tượng có lúc chúng linh hoạt, vững vàng cỡ nào…
Pylos quay lại cùng một bé gái, vẫn e lệ như mọi khi. Phía sau là viên tùy tùng đang lê bước nhìn ngó nghiêng, trên đầu đội cái thùng sắt cũ giả mũ, trên đỉnh là hai cái sừng hươu, cái chuông cho bò đeo trên mũ. Theo mỗi bước chân hắn, cái chuông kêu vang những âm thanh khác nhau clang-a-dang bong-dong ring-a- ling clong clong clong.
“Pylos ai đến thăm chúng ta sớm vậy?” Cressen nói.
“Là tôi và Patches, thưa học sĩ.” Đôi mắt lam khờ dại liếc nhìn ông. Chao ôi, nàng không phải là người có khuôn mặt đẹp. Đứa trẻ này thừa hưởng chiếc cằm góc cạnh của Cha và cái tai bất hạnh của mẹ, dài thòng, thêm nữa hồi nhỏ còn bị bệnh suýt chết, tuy đã tránh được tai kiếp nhưng di chứng đáng sợ của nó vẫn còn lưu trên người, nửa khuôn mặt từ má đến cổ Đông cứng lại như xác chết, làn da khô nứt, bong từng mảng, những lớp vằn đen lấm tấm bụi mỗi khi sờ vào “Pylos, nói chung tôi có thể thăm con quạ trắng đó.”
“Tất nhiên là có thể.” Cressen trả lời như thể ông không nhẫn tâm cự tuyệt. Bé đã quá thường xuyên bị cự tuyệt trong đời. Tên bé là Shireen, sắp tròn mười tuổi trong vài ngày tới và là đứa trẻ trông buồn bã nhất mà học sĩ Cressen từng gặp. Nỗi buồn của cô bé chính là sự xấu hổ của ta, viên học sĩ nghĩ, dấu hiệu khác của sự thất trách. “Học sĩ Pylos,làm phiền cậu mang con chim từ tổ quạ xuống cho tiểu thư Shireen xem.”
“Vinh hạnh của tôi.” Pylos là một thanh niên lịch sự, chưa quá hai mươi lăm tuổi nhưng lúc nào cũng nghiêm túc như ông già sáu mươi. Giá anh có thêm chút hài hước và sức sống hơn thì tốt, nơi đây đang thiếu điều này. Những nơi tối tăm cần ánh sáng chứ không cần long trọng và chắc chắn, đảo Dragonstone là một thành quách cô tịch, xung quanh bao phủ bởi bão và nước mặn, sau lưng luôn có những ngọn núi xì khói âm thầm. Một học sĩ phải đến nơi anh ta được ra lệnh, vì vậy Cressen đã đến đây cùng với lãnh chúa của ông hơn hai mươi năm trước và ông đã tận tâm cống hiến, tận trung công tác nhưng ông chưa bao giờ yêu Dragonstone, chưa bao giờ thực sự cảm thấy nơi đây là nhà. Gầy đây, ông thường mơ thấy một người phụ nữ mặc áo đỏ làm phiền khi ông giật mình thức giấc, hoảng sợ không biết mình đang ở đâu
Tên hề quay đầu nhìn Pylos bước lên bậc thang sắt dẫn đến tổ quạ. Chiếc chuông vang lên theo mỗi hành động của hắn. “Dưới biển, đám chim kia đang so lông” hắn nói, clang-a-langing “Ta biết, ta biết, ồ, ồ, ồ.”
Lấy tiêu chuẩn một thằng hề mà nói, Patchface là một vai diễn thất bại. Có lẽ thật lâu trước kia hắn dễ dàng khơi gợi mọi người cười to, nhưng biển đã cướp đi năng lực này của hắn, đồng thời cũng lấy đi một nửa thần trí và trí nhớ. Thân thể hắn bây giờ béo phì và mềm nhũn, đôi khi còn run rẩy, đôi khi nói không rõ lời. Cô bé này là người duy nhất còn cười với hắn và là người duy nhất quan tâm hắn sống hay chết.
Một cô bé xấu xí và một thằng hề ngu ngốc, thêm một lão học sĩ là thành ba… giờ thì đúng là có một câu chuyện khiến người ta muốn khóc.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. “Đến ngồi với ta nào, bé con.” Cressen ngoắc tay ra hiệu bé đến gần “Mới sáng sớm, một đứa trẻ nên ngủ ngoan trên giường, sao cháu lại đến tìm ta?”
“Cháu mơ thấy ác mộng.” Shireen nói: “Về những con rồng. Chúng đến ăn thịt cháu.” Theo như học sĩ Cressen nhớ thì đứa trẻ này thường xuyên gặp ác mộng “Chúng ta đã nói về chuyện này trước đây rồi.” Ông nhẹ nhàng: “Những con rồng không còn tồn tại. Chúng đều đã hóa thạch. Thật lâu trước kia, đảo của chúng ta chính là tiền trạm phía Tây của vương quốc Valyria (Freehold). Chính những người Valyria đã xây lên thành Citadel này và chính họ đã để lại cho chúng ta hình dạng tòa thành hiện nay. Để phòng thủ, một lâu đài phải có những tháp canh trên mỗi hai tường thành tạo thành một tam giác. Những người Valyria cũng thiết kế những tòa tháp hình con rồng để tăng thêm sự sợ hãi cho đối thủ, chính họ cũng thiết kế hàng ngàn lỗ châu mai đơn giản thành những tượng ác quỷ.” Ông vươn mình nắm lấy đôi bàn tay nhỏ bé và khẽ bóp: “Vì vậy cháu thấy đấy, chẳng có gì đáng sợ cả.”
Shireen vẫn không tin: “Vậy còn cái thứ trên bầu trời thì sao ạ? Dalla và Matrice nói về chúng bên bờ giếng. Dalla nói rằng chị ấy nghe thấy người đàn bà mặc váy đỏ nói với mẹ chị ấy rằng đó là hơi thở của những con rồng. Nếu những con rồng đang thở thì chẳng phải chúng sống lại hay sao?”
Lại là người phụ nữ mặc váy đỏ, học sĩ Cressen cay đắng nghĩ, chả lẽ suốt ngày nhồi nhét ý nghĩ cô bé bị điên với mẹ còn chưa đủ, giờ còn đầu độc cả các giấc mơ? Ông nhất định phải có vài lời cứng rắn với Dalla, cảnh cáo cô ta không lan truyền những chuyện giật gân như vậy nữa. “Bé con, thứ ở trên trời là sao chổi, một ngôi sao với một cái đuôi dài, biến mất trên không trung. Nó sẽ nhanh chóng biến mất thôi, và cháu sẽ không bao giờ gặp lại nó nữa. Cháu cứ chờ mà xem”
Shireen lấy lại chút dũng cảm gật đầu: “Mẹ nói con quạ trắng kia có nghĩa là mùa hè đã qua.”
“Đúng là vậy đó, tiểu thư. Những con quạ trắng chỉ bay đi từ Citadel.” Những ngón tay Cressen khẽ vuốt vòng cổ, mỗi hạt của nó được làm từ kim loại khác nhau, biểu tượng cho việc đạt được những thành tựu trong các lĩnh vực khác nhau; vòng đeo cổ của viên học sĩ chính là dấu hiệu của tổ chức. Trong những năm tuổi trẻ, ông đã cảm thấy rất hãnh diện khi đeo chiếc vòng này, nhưng giờ thì nó quá nặng, lớp thép lạnh kề sát làn da “Chúng lớn hơn so với các con cùng loại, cũng thông minh hơn và có thể được huấn luyện để chuyển các thông điệp quan trọng. Con quạ trắng này đưa đến cho chúng ta tin về cuộc họp kín của hội đồng để xem xét các báo cáo và các đánh giá của các học sĩ về toàn bộ tình hình đế quốc, bố cáo việc mùa hè cuối cùng đã kết thúc. Mùa hè này dài mười năm, hai tháng và mười sáu ngày, một mùa hè dài nhất trong lịch sử.”
“Thời tiết sẽ sớm chuyển sang lạnh ạ?” Shireen là một đứa trẻ được sinh ra trong mùa hè, chưa bao giờ biết đến cái lạnh thực sự.
“Sớm muộn gì cũng thế.” Cressen trả lời: “Nếu các chư thần từ bi, họ sẽ cho chúng ta một mùa thu ấm áp và các vụ mùa bội thu, nhờ đó chúng ta có thể chuẩn bị tốt khi mùa đông đến.” Dân gian nói rằng một mùa hè dài cũng sẽ kéo theo một mùa Đông dài hơn, nhưng viên học sĩ sẽ không kể chuyện này để hù dọa cô bé nữa.
Patchface rung rinh cái chuông: “Dưới đáy biển luôn có mùa hè.” Hắn ngân nga: “Các mỹ nhân ngư đeo tảo biển trên mái tóc, mặc áo choàng rong màu bạc, ta biết, ta biết, ồ, ồ, ồ.” Shireen cười khanh khách: “Ta cũng muốn có một chiếc áo choàng rong màu bạc.”
“Tuyết sẽ dừng trên mặt biển.” Tên hề nói: “Và nước mưa thì khô như xương, ta biết, ta biết, ồ, ồ, ồ.”
“Sẽ thực sự có tuyết ạ?” Cô bé hỏi.
“Có đấy.” Cressen nói, tuy là ta mong phải vài năm sau tuyết mới rơi và sẽ kéo dài không lâu “À, Pylos và con chim đến đây rồi.”
Shireen kêu lên vì vui mừng. Ngay cả Cressen cũng phải thừa nhận con chim này thật hiếm có, trắng như tuyết và lớn hơn cả chim ưng, đôi mắt đen to tròn chứng minh nó chính là hàng thật giá thật, mang đúng huyết thống của quạ trắng thành Citadel. “Lại đây nào.” Ông gọi, con quạ trắng dang cánh, bay qua phòng rồi đậu ầm ĩ xuống cái bàn cạnh ông.
“Tôi giúp ngài chuẩn bị bữa sáng.” Pylos thông báo và Cressen gật đầu đồng ý: “Đây là tiểu thư Shireen.” Ông giới thiệu với con quạ. Con chim cử động đầu gật lên xuống như thể nó đang hành lễ “Tiểu thư.” Nó kêu vang: “Tiểu thư.”
Miệng cô bé mở to ngạc nhiên: “Nó nói chuyện kìa.”
“Một vài từ, như ta đã nói, những con quạ này rất thông minh.”
“Con chim thông minh, người đàn ông thông minh, tên hề thông minh thông minh.” Patchface om sòm: “Ồ, tên hề thông minh thông minh thông minh.” Hắn bắt đầu hát: “Các hình bóng đến khiêu vũ, lãnh chúa của tôi, hãy khiêu vũ đi lãnh chúa của tôi, hãy khiêu vũ đi lãnh chúa của tôi.” Hắn nhảy nhót từ chân này sang chân kia “Các hình bóng đến ở đây, lãnh chúa của tôi, xin hãy ở lại đây, lãnh chúa của tôi, xin hãy ở lại lãnh chúa của tôi.” Đầu hắn lúc lắc theo mỗi lời bài hát, chiếc chuông không ngừng kêu leng keng.
Con quạ trắng hét lên, cuống cuồng bay đến thanh sắt trên bậc dẫn đến tổ quạ. Shireen trông càng nhỏ bé hơn. “Chú ấy lúc nào cũng hát bài này. Cháu đã ra lệnh cho chú ngừng hát, nhưng chú ấy không nghe lời. Cháu rất sợ. Ông hãy bảo chú ấy ngừng đi.”
“Ta làm thế nào cho hắn dừng đây?” Vị lão nhân thầm hỏi. Ta đã từng có cơ hội khiến hắn im lặng mãi mãi, nhưng giờ thì…
Patchface đến với họ khi còn là một cậu nhóc. Lãnh chúa Steffon vẫn còn ký ức ngọt ngào khi tìm thấy hắn tại Volantis, khi vượt qua Biển Hẹp. Đức vua - Cố đế vương, Aerys II Targaryen, khi đó còn chưa phát điên, đã cử một con tàu đi tìm cô dâu cho Hoàng tử Rhaegar, người không có chị em nào để lên vợ lên chồng. “Chúng tôi đã tìm được một tên hề tuyệt vời.” Ông viết cho Cressen hai tuần trước khi quay về nhà: “Chỉ là một cậu bé thôi, nhưng nhanh nhẹn như khỉ và thông minh hơn cả đống cận thần. Hắn không chỉ làm các trò ảo thuật, đưa ra câu đố và đùa giỡn với ma thuật, mà còn hát bằng bốn ngôn ngữ khác nhau. Chúng ta đã mua tự do cho hắn và hy vọng mang được hắn về nhà cùng. Robert sẽ rất vui và có lẽ chỉ một thời gian nữa thôi thì hắn cũng biết cách chọc Stannis cười.”
Thật buồn là Cressen vẫn còn nhớ nội dung của lá thư này. Không ai từng chọc Stannis cười cả, ngay cả thằng nhỏ Patchface cũng không có cơ hội. Cơn bão bất ngờ ập đến, gào thét và Vịnh Phá Thuyền (Shipbreaker Bay) đã chứng minh tên của nó không phải ngẫu nhiên. Viên lãnh chúa cùng với hai học sĩ ngồi trên chiếc thuyền Ngạo Phong (Windproud) đã bị sóng đánh tan trước mắt, hai người con cả trên tường thành chỉ biết trơ mắt nhìn chiếc chuyền của Cha vỡ tan khi va đập vào vách đá, sau đó biến mất dưới mặt nước. Hàng trăm thủy thủ và chèo thuyền đã ra đi cùng với Lãnh chúa Steffon. Baratheon và vợ ông cũng táng thân dưới đáy biển, thi hài của họ dạt vào bãi cát và được tìm thấy vài ngày sau khi cơn bão kết thúc.
Thằng bé này được tìm thấy vào ngày thứ ba. Học sĩ Cressen lúc đó đang đi dọc bờ biển cùng vài người khác để nhận diện người chết. Họ tìm thấy thằng hề thân thể trần truồng, làn da tái nhợt dính đầy cát ẩm. Cressen tưởng hắn cũng chỉ là thi thể, nhưng khi Jornmy cầm mắt cá chân hắn chuẩn bị kéo lên xe ngựa thì thằng bé sặc nước và ngồi dậy. Cho đến khi lâm chung, Jornmy vẫn quả quyết rằng da thịt Patchface lúc đó lạnh như người chết.
Không ai có thể giải thích lý do thằng hề đã mất tích trên biển hai ngày trước sao giờ “sống lại” được. Ngư dân lan truyền câu chuyện kể về một nàng tiên cá đã dậy hắn cách thở dưới nước để đổi lấy hạt giống của hắn. Patchface không hề hé một lời về chuyện này. Nhưng thằng hề thông minh dí dỏm mà lãnh chúa Steffon miêu tả trong thư thì chưa bao giờ xuất hiện tại Storm’s End; thằng bé mà họ tìm thấy là một người hoàn toàn khác, bị thương cả thân thể và tâm hồn, hầu như không thể nói chuyện và chả có tí trí tuệ nào. Nhưng nhìn khuôn mặt hề của nó thì không ai có thể nghi ngờ thân phận này, vì theo phong tục của Thành Phố Tự Do tại Volantis thì người ta sẽ xăm hình vuông chéo màu đỏ và xanh lên khuôn mặt của nô lệ và người hầu, từ da đầu xuống cổ.
“Đứa trẻ bất hạnh này điên rồi, còn bị thương nữa, chả có ích gì ọi người, kể cả chính bản thân hắn.” Ser Harbert, cựu thành chủ Storm’s End năm đó đưa ra ý kiến: “Điều tốt nhất mà cậu làm lúc này chính là cho hắn một liều nhựa thuốc phiện để hắn có một giấc ngủ không đau đớn và kết thúc cuộc đời yên ả. Nếu nó còn biết suy nghĩ thì chắc chắn sẽ cảm kích cậu.” Nhưng Cressen kiên quyết phản đối và cuối cùng ý kiến của ông cũng được lắng nghe. Về phần Patchface bất kể có vui mừng với quyết định này hay không thì hắn cũng không thể bày tỏ, cho đến tận bây giờ, dù nhiều năm trôi qua.
“Những cái bóng đến khiêu vũ, lãnh chúa của tôi, xin hãy khiêu vũ lãnh chúa của tôi, xin hãy khiêu vũ.” Tên hề vẫn tiếp tục hát, lắc lư cái đầu khiến chiếc chuông trên đầu hắn kêu leng keng.
“Lãnh chúa.” Con quạ trắng hét lên inh tai: “Lãnh chúa, lãnh chúa, lãnh chúa.”
“Một tên hề hát những gì hắn muốn.” Viên học sĩ trấn an cô công chúa đang kinh hoàng: “Cháu đừng để trong lòng. Có thể ngày mai hắn sẽ nhớ ra một bài hát khác và cháu sẽ không bao giờ phải nghe lại bài này nữa.” Hắn có thể hát bằng bốn ngôn ngữ khác nhau, lãnh chúa Steffon đã viết trong thư như thế…
Pylos bước vội vào trong phòng: “Học sĩ, xin phép quấy rầy.”
“Cậu đã quên cháo yến mạch.” Cressen vô cùng kinh ngạc, điều này không giống với Pylos thường khi “Học sĩ, Ser Davos đã quay lại đây tối qua. Mọi người đang nói về việc này dưới bếp. Tôi nghĩ phải cho ông biết tin này ngay tức thì.”
“Davos… tối qua, cậu nói tối qua phải không? Giờ ông ta đang ở đâu?”
“Ở cùng với Đức vua. Họ đã nói chuyện gần suốt đêm.”
Nếu là ngày trước, mỗi khi có chuyện, Lãnh chúa Stannis nhất định sẽ đánh thức ông để bàn bạc, bất kể ngày hay đêm. “Ta đáng lẽ phải được mời đến.” Cressen ai oán: “Đáng lẽ phải đánh thức ta chứ.” Ông rút tay ra khỏi bàn tay Shireen: “Xin lỗi tiểu thư, nhưng ta phải nói chuyện với Cha người. Pylos, giúp ta một tay nào. Lâu đài này có nhiều bậc thang và có cảm giác mỗi đêm lại nhiều bậc hơn, đúng là phiền mà.”
Shireen và Patche theo họ ra ngoài, nhưng cô bé sớm cảm thấy không kiên nhẫn với những bước chân chậm rì của viên học sĩ già nên bước nhanh lên phía trước, thằng hề chạy cà thọt sau cô kèm theo tiếng chuông khiến người ta phát điên. Các lâu đài đúng là không phải nơi thích hợp dành cho kẻ yếu đuối, Cressen cảm giác sâu sắc chuyện này khi lần từng bước lên Tháp Sea Dragon Tower. Lãnh chúa Stannis giờ này chắc đang Phòng Painted Table* trên đỉnh tháp Stone Drum, tháp trung tâm của đảo Dragonstone. Tháp này có tên là Drum (Tháp Trống) chính bởi vì mỗi khi có bão, sóng lớn đập vào các bức tường cổ xưa vang dội. Để đến được đó, đoàn người sẽ phải đi qua một hành lang dài, hai bên đặt những tượng quỷ bảo vệ và cách cổng sắt màu đen. Đối với ông già có một bên hông bị vỡ thì quả là khổ hình, nhưng lãnh chúa Stannis không muốn đến với ông thì ông đành phải tiến đến chỗ lãnh chúa. Nói gì thì nói, Lãnh chúa đã cử Pylos đến giúp ông và ông cần cảm kích về điều đó.
(*): Phòng Painted Table - Chamber of the Painted Table là phòng họp chính trong lâu đài trên đảo Dragonstone. Nó có tên này vì cái bàn phòng chiếm phần lớn diện tích phòng họp, trên mặt bàn khắc bản đồ Westeros đánh dấu những thành phố và vùng đất lớn).
Bọn họ chậm rãi đi dọc hành lang, vượt qua những cách cửa sổ vòm trên cao có tầm nhìn vượt ra khỏi lâu đài, thu gọn làng chài vào tầm mắt. Trong sân tập, những cung thủ đang luyện tập theo hiệu lệnh: “Cầm tên, nạp cung, bắn.” Sau hiệu lệnh phóng tên, những mũi tên bay vút xé tan không khí. Vệ binh sải bước tuần tra trên tường thành, đi giữa các bức tượng quỷ hướng đến các lều trại đóng bên ngoài. Khói bếp lượn lờ trong không khí buổi sáng, khi ba ngàn lính ngồi ăn sáng dưới ngọn cờ in gia huy của lãnh chúa mình. Qua dãy doanh trại là cảng biển đậu rất nhiều chiến thuyền. Trong suốt nửa năm nay không tàu nào đến Dragon mà lại được phép rời đi. Đội thuyền mang tên Cơn giận dữ của Lãnh chúa Stannis (Lord Stannis’s Fury) gồm ba trăm thuyền chiến, đa số đều là thuyền nhỏ và vài chiếc thuyền lớn ba tầng có lắp bánh răng xung quanh.
Vệ binh bên ngoài Stone Drum đều quen mặt viên học sĩ và dễ dàng để họ đi qua. “Cậu đợi ở đây.” Cressen nói với Pylos: “Tốt nhất là tôi nên gặp riêng ông ấy.”
“Học sĩ, còn một đoạn đường dài nữa.”
Cressen mỉm cười: “Cậu nghĩ ta quên sao? Ta quen thuộc những bậc thang này còn hơn tên của mọi người ở đây.”
Nhưng mới đi được nửa đường ông đã sớm hối hận về quyết định của mình. Khi dừng lại để thở và để vết thương nơi hông đỡ đau, ông nghe thấy tiếng bước chân và rất nhanh đối mặt với Ser Davos Seaworth.
Davos là một người đàn ông gầy gò, tướng mạo bình thường xuất thân từ tầng lớp bình dân. Hắn mặc một chiếc áo choàng xanh sớm bị bạc bởi gió bụi và ánh mặt trời. Bên dưới là chiếc áo chẽn và quần hợp với màu mắt và tóc. Trên cổ đeo một chiếc túi da thuộc nhỏ có dây da, dưới đó là bộ râu xám, hắn đeo găng tay da ở bàn tay trái. Hắn dừng lại khi nhìn thấy Cressen.
“Ser Davos.” Viên học sĩ hỏi: “Cậu quay về lúc nào thế?”
“Mới sáng sớm nay, thời khắc tôi thích nhất.” Nghe nói không ai điều khiển thuyền ban đêm giỏi như “Ngón Ngắn” Davos. Trước khi được Lãnh chúa Stannis phong tước hiệp sĩ, hắn là kẻ buôn lậu khét tiếng bảy đế quốc.
“Và?”
Đối phương lắc đầu: “Tình hình giống như ông đã cảnh báo. Học sĩ, họ sẽ không đưa quân đến, không cử binh đi vì hắn. Họ không yêu quý gì hắn cả.”
Chắc chắn là không rồi. Cressen nghĩ. Họ chắc chắn không nguyện ý. Hắn mạnh mẽ, có khả năng, chỉ là… quá chính trực, nhưng điều đó là không đủ, chưa bao giờ đủ. “Cậu nói là tất cả bọn họ?”
“Tất cả bọn họ? Không. Chỉ những người tôi gặp. Những nhà quý tộc đó cũng chẳng ưa gì tôi. Đối với họ, tôi luôn chỉ là Hiệp sĩ củ hành.” Tay trái hắn nắm chặt, ngón tay độc nhất hướng vào phía trong như thể đang siết nắm đấm; Stannis đã chặt bốn ngón tay của hắn, chỉ chừa lại ngón tay cái “Tôi ăn bánh mì cùng Gulian Swann và lão già Penrose, và tổ chức cuộc họp bí mật với gia tộc Tarth. Còn những người khác, à, Beric Dondarrion không đến, nghe nói là đã chết, và lãnh chúa Caron thì đang ở cùng Renly. Bryce, thì đã trở thành vệ binh màu cam trong thành viên đội Vệ binh Cầu vồng.”
“Vệ binh Cầu Vồng?”
(Chú thích: The Rainbow Guard: trong cuộc chiến tranh giữa năm đế quốc, Renly Baratheon đã tự mình xưng vương, sau cái chết của anh trai là đức vua Robert, theo đó ông ta cũng thành lập một đội ngự lâm quân lấy tên là Rainbow Guard, bản sao của ngự lâm quân, gồm bảy người. Mỗi vệ binh trong đội đại diện ột màu trên cầu vồng, các thành viên của Đội vệ binh Cầu vồng bao gồm: Ser Loras Tyrell, đội trưởng; Brienne của gia tộc Tarth, màu xanh nước biển; Ser Bryce Caron, màu cam; Ser Emmon Cuy, màu vàng; Ser Guyard Morrigen, màu xanh lá cây; Ser Parmen Crane, màu tím; Ser Robar Royce, màu đỏ).
Đuôi sao chổi xoẹt qua bầu trời buổi bình minh, giống như một vết thương trên trời tím sẫm, một vết kiếm rạch đỏ chói lên các vách núi của đảo Dragonstone.
Viên học sĩ đứng lặng người ngoài ban công phòng ngủ trong tiếng gió thét gào. Nơi đây là điểm dừng chân của những con quạ sau một quãng đường bay dài. Phân của chúng lốm đốm trên những bức tượng quỷ hai bên sườn ười hai feet, một bên là tượng khuyển ngục (hellhound), một bên là rồng bay (wyvern), hai trong hàng ngàn con được tạo hình trên bức tường thành cổ xưa. Khi ông lần đầu tiên đến đảo Dragonstone, đội quân tượng đá kỳ cục này đã khiến ông cảm thấy bất an, nhưng năm tháng qua đi và ông dần quen với sự có mặt của chúng. Giờ thì ông nghĩ chúng như những người bạn cũ và ba người bọn họ đang cùng sóng vai nhìn bầu trời với tâm trạng lo sợ.
Viên học sĩ vốn không tin vào điềm báo. Nhưng… sống đến từng này tuổi, Cressen chưa bao giờ nhìn thấy đuôi sao chổi nào sáng như thế, hay có màu như thế, cái màu khủng khiếp, màu của máu tươi, lửa cháy và mặt trời lặn. Ông tự hỏi liệu những bức tượng quỷ - bạn của ông - cũng đã từng chứng kiến cảnh này hay chưa, dù sao thì chúng cũng có mặt ở đây trước ông, và sẽ còn ở đây lâu nữa sau khi ông rời đi. Nếu đá có thể nói chuyện…
Thật hoang đường. Ông dựa người trên mặt thành, gió biển vẫn tiếp tục thét gào bên dưới, mặt đá đen lạo xạo dưới những ngón tay. Nói chuyện về các bức tượng quỷ và những dấu hiệu trên bầu trời ư? Mình đúng trở thành một lão già rồi, lại phù phiếm như một đứa trẻ. Chả lẽ nửa đời khôn ngoan và từng trải của mình đã trôi qua sao? Ông là một học sĩ, được huấn luyện tại nhà Citadel vĩ đại của Oldtown, hiện lại mê tín như đầu óc của nông dân thì còn làm được cái gì?
Chính là… chính là… ngay cả ban ngày cũng thấy đuôi sao chổi cháy rực, trong khi hơi nước xám xịt không ngừng bốc lên từ lỗ thông hơi của mạch suối Dragon phía sau lâu đài, và ngay trong sáng qua một con quạ trăng đã mang tin tức từ Citadel đến, tin tức này ông từ lâu vừa mong đợi vừa sợ hãi: Mùa hè đã kết thúc. Cả những dấu hiệu điềm báo cũng cho thấy điều đó. Có quá nhiều dấu hiệu khiến ông không thể phủ nhận. Nhưng hết thảy những điềm báo này tột cùng có nghĩa là gì? Ông quả thực muốn khóc.
“Học sĩ Cressen, chúng ta có khách,” Pylos nhẹ giọng như thể không muốn quấy rầy khoảnh khắc trầm tư của Cressen. Giá anh biết được những gì đang diễn ra trong đầu ông, anh chắc chắn sẽ khóc thét: “Công chúa muốn thăm con quạ trắng đó”. Vì Cha bé xưng vương nên Pylos đã sửa cách gọi bé là công chúa. Dù chỉ là vua của một hòn đảo đá nằm chơ vơ giữa mặt biển mênh mông nhưng dù sao cũng là vua. “Tên cận thần ngu ngốc cũng đến cùng cô ấy.”
Lão học sĩ xoay người khỏi ban công, tay vẫn vịn vào con rồng đá. “Đỡ ta ngồi xuống, sau đó mời họ vào.”
Cầm tay ông, Pylos dẫn ông vào trong phòng. Thời trẻ Cressen vốn là người nhanh nhẹn, nhưng giờ ông đã gần tám mươi tuổi, hai chân trở nên yếu ớt. Hai năm trước ông bị vỡ một bên hông do ngã và vết thương đó không bao giờ phục hồi hoàn toàn. Năm trước khi ông ngã bệnh, nhà Citadel đã gửi Pylos từ Oldtown đến đây vừa vặn vài ngày trước khi Lãnh chúa Stannis ra lệnh phong tỏa đảo… để giúp ông xử lý sự vụ, đấy là người ta nói thế, nhưng Cressen biết thâm ý đằng sau. Pylos đến thay vai trò của ông khi ông qua đời. Ông cũng không để ý đến điều này. Trước sau gì cũng phải có ai đó thay vị trí của ông, nhưng ông không nghĩ nó sớm thế này.
Ông để cho anh chàng trẻ tuổi dắt mình đến bàn, trên bàn đầy giấy và sách “Mời cô ấy vào, đừng để một tiểu thư đợi quá lâu,” ông vẫy tay vô lực ra hiệu không thể chờ đợi tiếp. Bàn tay da nhăn nheo như một tờ giấy nhàu nát, bên dưới nhìn rõ những mạch máu khô. Nhìn bàn tay run rẩy ấy, không ai có thể tưởng tượng có lúc chúng linh hoạt, vững vàng cỡ nào…
Pylos quay lại cùng một bé gái, vẫn e lệ như mọi khi. Phía sau là viên tùy tùng đang lê bước nhìn ngó nghiêng, trên đầu đội cái thùng sắt cũ giả mũ, trên đỉnh là hai cái sừng hươu, cái chuông cho bò đeo trên mũ. Theo mỗi bước chân hắn, cái chuông kêu vang những âm thanh khác nhau clang-a-dang bong-dong ring-a- ling clong clong clong.
“Pylos ai đến thăm chúng ta sớm vậy?” Cressen nói.
“Là tôi và Patches, thưa học sĩ.” Đôi mắt lam khờ dại liếc nhìn ông. Chao ôi, nàng không phải là người có khuôn mặt đẹp. Đứa trẻ này thừa hưởng chiếc cằm góc cạnh của Cha và cái tai bất hạnh của mẹ, dài thòng, thêm nữa hồi nhỏ còn bị bệnh suýt chết, tuy đã tránh được tai kiếp nhưng di chứng đáng sợ của nó vẫn còn lưu trên người, nửa khuôn mặt từ má đến cổ Đông cứng lại như xác chết, làn da khô nứt, bong từng mảng, những lớp vằn đen lấm tấm bụi mỗi khi sờ vào “Pylos, nói chung tôi có thể thăm con quạ trắng đó.”
“Tất nhiên là có thể.” Cressen trả lời như thể ông không nhẫn tâm cự tuyệt. Bé đã quá thường xuyên bị cự tuyệt trong đời. Tên bé là Shireen, sắp tròn mười tuổi trong vài ngày tới và là đứa trẻ trông buồn bã nhất mà học sĩ Cressen từng gặp. Nỗi buồn của cô bé chính là sự xấu hổ của ta, viên học sĩ nghĩ, dấu hiệu khác của sự thất trách. “Học sĩ Pylos,làm phiền cậu mang con chim từ tổ quạ xuống cho tiểu thư Shireen xem.”
“Vinh hạnh của tôi.” Pylos là một thanh niên lịch sự, chưa quá hai mươi lăm tuổi nhưng lúc nào cũng nghiêm túc như ông già sáu mươi. Giá anh có thêm chút hài hước và sức sống hơn thì tốt, nơi đây đang thiếu điều này. Những nơi tối tăm cần ánh sáng chứ không cần long trọng và chắc chắn, đảo Dragonstone là một thành quách cô tịch, xung quanh bao phủ bởi bão và nước mặn, sau lưng luôn có những ngọn núi xì khói âm thầm. Một học sĩ phải đến nơi anh ta được ra lệnh, vì vậy Cressen đã đến đây cùng với lãnh chúa của ông hơn hai mươi năm trước và ông đã tận tâm cống hiến, tận trung công tác nhưng ông chưa bao giờ yêu Dragonstone, chưa bao giờ thực sự cảm thấy nơi đây là nhà. Gầy đây, ông thường mơ thấy một người phụ nữ mặc áo đỏ làm phiền khi ông giật mình thức giấc, hoảng sợ không biết mình đang ở đâu
Tên hề quay đầu nhìn Pylos bước lên bậc thang sắt dẫn đến tổ quạ. Chiếc chuông vang lên theo mỗi hành động của hắn. “Dưới biển, đám chim kia đang so lông” hắn nói, clang-a-langing “Ta biết, ta biết, ồ, ồ, ồ.”
Lấy tiêu chuẩn một thằng hề mà nói, Patchface là một vai diễn thất bại. Có lẽ thật lâu trước kia hắn dễ dàng khơi gợi mọi người cười to, nhưng biển đã cướp đi năng lực này của hắn, đồng thời cũng lấy đi một nửa thần trí và trí nhớ. Thân thể hắn bây giờ béo phì và mềm nhũn, đôi khi còn run rẩy, đôi khi nói không rõ lời. Cô bé này là người duy nhất còn cười với hắn và là người duy nhất quan tâm hắn sống hay chết.
Một cô bé xấu xí và một thằng hề ngu ngốc, thêm một lão học sĩ là thành ba… giờ thì đúng là có một câu chuyện khiến người ta muốn khóc.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. “Đến ngồi với ta nào, bé con.” Cressen ngoắc tay ra hiệu bé đến gần “Mới sáng sớm, một đứa trẻ nên ngủ ngoan trên giường, sao cháu lại đến tìm ta?”
“Cháu mơ thấy ác mộng.” Shireen nói: “Về những con rồng. Chúng đến ăn thịt cháu.” Theo như học sĩ Cressen nhớ thì đứa trẻ này thường xuyên gặp ác mộng “Chúng ta đã nói về chuyện này trước đây rồi.” Ông nhẹ nhàng: “Những con rồng không còn tồn tại. Chúng đều đã hóa thạch. Thật lâu trước kia, đảo của chúng ta chính là tiền trạm phía Tây của vương quốc Valyria (Freehold). Chính những người Valyria đã xây lên thành Citadel này và chính họ đã để lại cho chúng ta hình dạng tòa thành hiện nay. Để phòng thủ, một lâu đài phải có những tháp canh trên mỗi hai tường thành tạo thành một tam giác. Những người Valyria cũng thiết kế những tòa tháp hình con rồng để tăng thêm sự sợ hãi cho đối thủ, chính họ cũng thiết kế hàng ngàn lỗ châu mai đơn giản thành những tượng ác quỷ.” Ông vươn mình nắm lấy đôi bàn tay nhỏ bé và khẽ bóp: “Vì vậy cháu thấy đấy, chẳng có gì đáng sợ cả.”
Shireen vẫn không tin: “Vậy còn cái thứ trên bầu trời thì sao ạ? Dalla và Matrice nói về chúng bên bờ giếng. Dalla nói rằng chị ấy nghe thấy người đàn bà mặc váy đỏ nói với mẹ chị ấy rằng đó là hơi thở của những con rồng. Nếu những con rồng đang thở thì chẳng phải chúng sống lại hay sao?”
Lại là người phụ nữ mặc váy đỏ, học sĩ Cressen cay đắng nghĩ, chả lẽ suốt ngày nhồi nhét ý nghĩ cô bé bị điên với mẹ còn chưa đủ, giờ còn đầu độc cả các giấc mơ? Ông nhất định phải có vài lời cứng rắn với Dalla, cảnh cáo cô ta không lan truyền những chuyện giật gân như vậy nữa. “Bé con, thứ ở trên trời là sao chổi, một ngôi sao với một cái đuôi dài, biến mất trên không trung. Nó sẽ nhanh chóng biến mất thôi, và cháu sẽ không bao giờ gặp lại nó nữa. Cháu cứ chờ mà xem”
Shireen lấy lại chút dũng cảm gật đầu: “Mẹ nói con quạ trắng kia có nghĩa là mùa hè đã qua.”
“Đúng là vậy đó, tiểu thư. Những con quạ trắng chỉ bay đi từ Citadel.” Những ngón tay Cressen khẽ vuốt vòng cổ, mỗi hạt của nó được làm từ kim loại khác nhau, biểu tượng cho việc đạt được những thành tựu trong các lĩnh vực khác nhau; vòng đeo cổ của viên học sĩ chính là dấu hiệu của tổ chức. Trong những năm tuổi trẻ, ông đã cảm thấy rất hãnh diện khi đeo chiếc vòng này, nhưng giờ thì nó quá nặng, lớp thép lạnh kề sát làn da “Chúng lớn hơn so với các con cùng loại, cũng thông minh hơn và có thể được huấn luyện để chuyển các thông điệp quan trọng. Con quạ trắng này đưa đến cho chúng ta tin về cuộc họp kín của hội đồng để xem xét các báo cáo và các đánh giá của các học sĩ về toàn bộ tình hình đế quốc, bố cáo việc mùa hè cuối cùng đã kết thúc. Mùa hè này dài mười năm, hai tháng và mười sáu ngày, một mùa hè dài nhất trong lịch sử.”
“Thời tiết sẽ sớm chuyển sang lạnh ạ?” Shireen là một đứa trẻ được sinh ra trong mùa hè, chưa bao giờ biết đến cái lạnh thực sự.
“Sớm muộn gì cũng thế.” Cressen trả lời: “Nếu các chư thần từ bi, họ sẽ cho chúng ta một mùa thu ấm áp và các vụ mùa bội thu, nhờ đó chúng ta có thể chuẩn bị tốt khi mùa đông đến.” Dân gian nói rằng một mùa hè dài cũng sẽ kéo theo một mùa Đông dài hơn, nhưng viên học sĩ sẽ không kể chuyện này để hù dọa cô bé nữa.
Patchface rung rinh cái chuông: “Dưới đáy biển luôn có mùa hè.” Hắn ngân nga: “Các mỹ nhân ngư đeo tảo biển trên mái tóc, mặc áo choàng rong màu bạc, ta biết, ta biết, ồ, ồ, ồ.” Shireen cười khanh khách: “Ta cũng muốn có một chiếc áo choàng rong màu bạc.”
“Tuyết sẽ dừng trên mặt biển.” Tên hề nói: “Và nước mưa thì khô như xương, ta biết, ta biết, ồ, ồ, ồ.”
“Sẽ thực sự có tuyết ạ?” Cô bé hỏi.
“Có đấy.” Cressen nói, tuy là ta mong phải vài năm sau tuyết mới rơi và sẽ kéo dài không lâu “À, Pylos và con chim đến đây rồi.”
Shireen kêu lên vì vui mừng. Ngay cả Cressen cũng phải thừa nhận con chim này thật hiếm có, trắng như tuyết và lớn hơn cả chim ưng, đôi mắt đen to tròn chứng minh nó chính là hàng thật giá thật, mang đúng huyết thống của quạ trắng thành Citadel. “Lại đây nào.” Ông gọi, con quạ trắng dang cánh, bay qua phòng rồi đậu ầm ĩ xuống cái bàn cạnh ông.
“Tôi giúp ngài chuẩn bị bữa sáng.” Pylos thông báo và Cressen gật đầu đồng ý: “Đây là tiểu thư Shireen.” Ông giới thiệu với con quạ. Con chim cử động đầu gật lên xuống như thể nó đang hành lễ “Tiểu thư.” Nó kêu vang: “Tiểu thư.”
Miệng cô bé mở to ngạc nhiên: “Nó nói chuyện kìa.”
“Một vài từ, như ta đã nói, những con quạ này rất thông minh.”
“Con chim thông minh, người đàn ông thông minh, tên hề thông minh thông minh.” Patchface om sòm: “Ồ, tên hề thông minh thông minh thông minh.” Hắn bắt đầu hát: “Các hình bóng đến khiêu vũ, lãnh chúa của tôi, hãy khiêu vũ đi lãnh chúa của tôi, hãy khiêu vũ đi lãnh chúa của tôi.” Hắn nhảy nhót từ chân này sang chân kia “Các hình bóng đến ở đây, lãnh chúa của tôi, xin hãy ở lại đây, lãnh chúa của tôi, xin hãy ở lại lãnh chúa của tôi.” Đầu hắn lúc lắc theo mỗi lời bài hát, chiếc chuông không ngừng kêu leng keng.
Con quạ trắng hét lên, cuống cuồng bay đến thanh sắt trên bậc dẫn đến tổ quạ. Shireen trông càng nhỏ bé hơn. “Chú ấy lúc nào cũng hát bài này. Cháu đã ra lệnh cho chú ngừng hát, nhưng chú ấy không nghe lời. Cháu rất sợ. Ông hãy bảo chú ấy ngừng đi.”
“Ta làm thế nào cho hắn dừng đây?” Vị lão nhân thầm hỏi. Ta đã từng có cơ hội khiến hắn im lặng mãi mãi, nhưng giờ thì…
Patchface đến với họ khi còn là một cậu nhóc. Lãnh chúa Steffon vẫn còn ký ức ngọt ngào khi tìm thấy hắn tại Volantis, khi vượt qua Biển Hẹp. Đức vua - Cố đế vương, Aerys II Targaryen, khi đó còn chưa phát điên, đã cử một con tàu đi tìm cô dâu cho Hoàng tử Rhaegar, người không có chị em nào để lên vợ lên chồng. “Chúng tôi đã tìm được một tên hề tuyệt vời.” Ông viết cho Cressen hai tuần trước khi quay về nhà: “Chỉ là một cậu bé thôi, nhưng nhanh nhẹn như khỉ và thông minh hơn cả đống cận thần. Hắn không chỉ làm các trò ảo thuật, đưa ra câu đố và đùa giỡn với ma thuật, mà còn hát bằng bốn ngôn ngữ khác nhau. Chúng ta đã mua tự do cho hắn và hy vọng mang được hắn về nhà cùng. Robert sẽ rất vui và có lẽ chỉ một thời gian nữa thôi thì hắn cũng biết cách chọc Stannis cười.”
Thật buồn là Cressen vẫn còn nhớ nội dung của lá thư này. Không ai từng chọc Stannis cười cả, ngay cả thằng nhỏ Patchface cũng không có cơ hội. Cơn bão bất ngờ ập đến, gào thét và Vịnh Phá Thuyền (Shipbreaker Bay) đã chứng minh tên của nó không phải ngẫu nhiên. Viên lãnh chúa cùng với hai học sĩ ngồi trên chiếc thuyền Ngạo Phong (Windproud) đã bị sóng đánh tan trước mắt, hai người con cả trên tường thành chỉ biết trơ mắt nhìn chiếc chuyền của Cha vỡ tan khi va đập vào vách đá, sau đó biến mất dưới mặt nước. Hàng trăm thủy thủ và chèo thuyền đã ra đi cùng với Lãnh chúa Steffon. Baratheon và vợ ông cũng táng thân dưới đáy biển, thi hài của họ dạt vào bãi cát và được tìm thấy vài ngày sau khi cơn bão kết thúc.
Thằng bé này được tìm thấy vào ngày thứ ba. Học sĩ Cressen lúc đó đang đi dọc bờ biển cùng vài người khác để nhận diện người chết. Họ tìm thấy thằng hề thân thể trần truồng, làn da tái nhợt dính đầy cát ẩm. Cressen tưởng hắn cũng chỉ là thi thể, nhưng khi Jornmy cầm mắt cá chân hắn chuẩn bị kéo lên xe ngựa thì thằng bé sặc nước và ngồi dậy. Cho đến khi lâm chung, Jornmy vẫn quả quyết rằng da thịt Patchface lúc đó lạnh như người chết.
Không ai có thể giải thích lý do thằng hề đã mất tích trên biển hai ngày trước sao giờ “sống lại” được. Ngư dân lan truyền câu chuyện kể về một nàng tiên cá đã dậy hắn cách thở dưới nước để đổi lấy hạt giống của hắn. Patchface không hề hé một lời về chuyện này. Nhưng thằng hề thông minh dí dỏm mà lãnh chúa Steffon miêu tả trong thư thì chưa bao giờ xuất hiện tại Storm’s End; thằng bé mà họ tìm thấy là một người hoàn toàn khác, bị thương cả thân thể và tâm hồn, hầu như không thể nói chuyện và chả có tí trí tuệ nào. Nhưng nhìn khuôn mặt hề của nó thì không ai có thể nghi ngờ thân phận này, vì theo phong tục của Thành Phố Tự Do tại Volantis thì người ta sẽ xăm hình vuông chéo màu đỏ và xanh lên khuôn mặt của nô lệ và người hầu, từ da đầu xuống cổ.
“Đứa trẻ bất hạnh này điên rồi, còn bị thương nữa, chả có ích gì ọi người, kể cả chính bản thân hắn.” Ser Harbert, cựu thành chủ Storm’s End năm đó đưa ra ý kiến: “Điều tốt nhất mà cậu làm lúc này chính là cho hắn một liều nhựa thuốc phiện để hắn có một giấc ngủ không đau đớn và kết thúc cuộc đời yên ả. Nếu nó còn biết suy nghĩ thì chắc chắn sẽ cảm kích cậu.” Nhưng Cressen kiên quyết phản đối và cuối cùng ý kiến của ông cũng được lắng nghe. Về phần Patchface bất kể có vui mừng với quyết định này hay không thì hắn cũng không thể bày tỏ, cho đến tận bây giờ, dù nhiều năm trôi qua.
“Những cái bóng đến khiêu vũ, lãnh chúa của tôi, xin hãy khiêu vũ lãnh chúa của tôi, xin hãy khiêu vũ.” Tên hề vẫn tiếp tục hát, lắc lư cái đầu khiến chiếc chuông trên đầu hắn kêu leng keng.
“Lãnh chúa.” Con quạ trắng hét lên inh tai: “Lãnh chúa, lãnh chúa, lãnh chúa.”
“Một tên hề hát những gì hắn muốn.” Viên học sĩ trấn an cô công chúa đang kinh hoàng: “Cháu đừng để trong lòng. Có thể ngày mai hắn sẽ nhớ ra một bài hát khác và cháu sẽ không bao giờ phải nghe lại bài này nữa.” Hắn có thể hát bằng bốn ngôn ngữ khác nhau, lãnh chúa Steffon đã viết trong thư như thế…
Pylos bước vội vào trong phòng: “Học sĩ, xin phép quấy rầy.”
“Cậu đã quên cháo yến mạch.” Cressen vô cùng kinh ngạc, điều này không giống với Pylos thường khi “Học sĩ, Ser Davos đã quay lại đây tối qua. Mọi người đang nói về việc này dưới bếp. Tôi nghĩ phải cho ông biết tin này ngay tức thì.”
“Davos… tối qua, cậu nói tối qua phải không? Giờ ông ta đang ở đâu?”
“Ở cùng với Đức vua. Họ đã nói chuyện gần suốt đêm.”
Nếu là ngày trước, mỗi khi có chuyện, Lãnh chúa Stannis nhất định sẽ đánh thức ông để bàn bạc, bất kể ngày hay đêm. “Ta đáng lẽ phải được mời đến.” Cressen ai oán: “Đáng lẽ phải đánh thức ta chứ.” Ông rút tay ra khỏi bàn tay Shireen: “Xin lỗi tiểu thư, nhưng ta phải nói chuyện với Cha người. Pylos, giúp ta một tay nào. Lâu đài này có nhiều bậc thang và có cảm giác mỗi đêm lại nhiều bậc hơn, đúng là phiền mà.”
Shireen và Patche theo họ ra ngoài, nhưng cô bé sớm cảm thấy không kiên nhẫn với những bước chân chậm rì của viên học sĩ già nên bước nhanh lên phía trước, thằng hề chạy cà thọt sau cô kèm theo tiếng chuông khiến người ta phát điên. Các lâu đài đúng là không phải nơi thích hợp dành cho kẻ yếu đuối, Cressen cảm giác sâu sắc chuyện này khi lần từng bước lên Tháp Sea Dragon Tower. Lãnh chúa Stannis giờ này chắc đang Phòng Painted Table* trên đỉnh tháp Stone Drum, tháp trung tâm của đảo Dragonstone. Tháp này có tên là Drum (Tháp Trống) chính bởi vì mỗi khi có bão, sóng lớn đập vào các bức tường cổ xưa vang dội. Để đến được đó, đoàn người sẽ phải đi qua một hành lang dài, hai bên đặt những tượng quỷ bảo vệ và cách cổng sắt màu đen. Đối với ông già có một bên hông bị vỡ thì quả là khổ hình, nhưng lãnh chúa Stannis không muốn đến với ông thì ông đành phải tiến đến chỗ lãnh chúa. Nói gì thì nói, Lãnh chúa đã cử Pylos đến giúp ông và ông cần cảm kích về điều đó.
(*): Phòng Painted Table - Chamber of the Painted Table là phòng họp chính trong lâu đài trên đảo Dragonstone. Nó có tên này vì cái bàn phòng chiếm phần lớn diện tích phòng họp, trên mặt bàn khắc bản đồ Westeros đánh dấu những thành phố và vùng đất lớn).
Bọn họ chậm rãi đi dọc hành lang, vượt qua những cách cửa sổ vòm trên cao có tầm nhìn vượt ra khỏi lâu đài, thu gọn làng chài vào tầm mắt. Trong sân tập, những cung thủ đang luyện tập theo hiệu lệnh: “Cầm tên, nạp cung, bắn.” Sau hiệu lệnh phóng tên, những mũi tên bay vút xé tan không khí. Vệ binh sải bước tuần tra trên tường thành, đi giữa các bức tượng quỷ hướng đến các lều trại đóng bên ngoài. Khói bếp lượn lờ trong không khí buổi sáng, khi ba ngàn lính ngồi ăn sáng dưới ngọn cờ in gia huy của lãnh chúa mình. Qua dãy doanh trại là cảng biển đậu rất nhiều chiến thuyền. Trong suốt nửa năm nay không tàu nào đến Dragon mà lại được phép rời đi. Đội thuyền mang tên Cơn giận dữ của Lãnh chúa Stannis (Lord Stannis’s Fury) gồm ba trăm thuyền chiến, đa số đều là thuyền nhỏ và vài chiếc thuyền lớn ba tầng có lắp bánh răng xung quanh.
Vệ binh bên ngoài Stone Drum đều quen mặt viên học sĩ và dễ dàng để họ đi qua. “Cậu đợi ở đây.” Cressen nói với Pylos: “Tốt nhất là tôi nên gặp riêng ông ấy.”
“Học sĩ, còn một đoạn đường dài nữa.”
Cressen mỉm cười: “Cậu nghĩ ta quên sao? Ta quen thuộc những bậc thang này còn hơn tên của mọi người ở đây.”
Nhưng mới đi được nửa đường ông đã sớm hối hận về quyết định của mình. Khi dừng lại để thở và để vết thương nơi hông đỡ đau, ông nghe thấy tiếng bước chân và rất nhanh đối mặt với Ser Davos Seaworth.
Davos là một người đàn ông gầy gò, tướng mạo bình thường xuất thân từ tầng lớp bình dân. Hắn mặc một chiếc áo choàng xanh sớm bị bạc bởi gió bụi và ánh mặt trời. Bên dưới là chiếc áo chẽn và quần hợp với màu mắt và tóc. Trên cổ đeo một chiếc túi da thuộc nhỏ có dây da, dưới đó là bộ râu xám, hắn đeo găng tay da ở bàn tay trái. Hắn dừng lại khi nhìn thấy Cressen.
“Ser Davos.” Viên học sĩ hỏi: “Cậu quay về lúc nào thế?”
“Mới sáng sớm nay, thời khắc tôi thích nhất.” Nghe nói không ai điều khiển thuyền ban đêm giỏi như “Ngón Ngắn” Davos. Trước khi được Lãnh chúa Stannis phong tước hiệp sĩ, hắn là kẻ buôn lậu khét tiếng bảy đế quốc.
“Và?”
Đối phương lắc đầu: “Tình hình giống như ông đã cảnh báo. Học sĩ, họ sẽ không đưa quân đến, không cử binh đi vì hắn. Họ không yêu quý gì hắn cả.”
Chắc chắn là không rồi. Cressen nghĩ. Họ chắc chắn không nguyện ý. Hắn mạnh mẽ, có khả năng, chỉ là… quá chính trực, nhưng điều đó là không đủ, chưa bao giờ đủ. “Cậu nói là tất cả bọn họ?”
“Tất cả bọn họ? Không. Chỉ những người tôi gặp. Những nhà quý tộc đó cũng chẳng ưa gì tôi. Đối với họ, tôi luôn chỉ là Hiệp sĩ củ hành.” Tay trái hắn nắm chặt, ngón tay độc nhất hướng vào phía trong như thể đang siết nắm đấm; Stannis đã chặt bốn ngón tay của hắn, chỉ chừa lại ngón tay cái “Tôi ăn bánh mì cùng Gulian Swann và lão già Penrose, và tổ chức cuộc họp bí mật với gia tộc Tarth. Còn những người khác, à, Beric Dondarrion không đến, nghe nói là đã chết, và lãnh chúa Caron thì đang ở cùng Renly. Bryce, thì đã trở thành vệ binh màu cam trong thành viên đội Vệ binh Cầu vồng.”
“Vệ binh Cầu Vồng?”
(Chú thích: The Rainbow Guard: trong cuộc chiến tranh giữa năm đế quốc, Renly Baratheon đã tự mình xưng vương, sau cái chết của anh trai là đức vua Robert, theo đó ông ta cũng thành lập một đội ngự lâm quân lấy tên là Rainbow Guard, bản sao của ngự lâm quân, gồm bảy người. Mỗi vệ binh trong đội đại diện ột màu trên cầu vồng, các thành viên của Đội vệ binh Cầu vồng bao gồm: Ser Loras Tyrell, đội trưởng; Brienne của gia tộc Tarth, màu xanh nước biển; Ser Bryce Caron, màu cam; Ser Emmon Cuy, màu vàng; Ser Guyard Morrigen, màu xanh lá cây; Ser Parmen Crane, màu tím; Ser Robar Royce, màu đỏ).
Danh sách chương