“Đại nhân cẩn thận!”

Thanh chủy thủ kia vừa lộ ra, nha dịch phía sau Lý Ý Lan lập tức hành động, vẻ mặt đề phòng, đao “Xoẹt xoẹt” tuốt ra khỏi vỏ.

Lý Ý Lan hạ tay, ý bảo bọn họ bình tĩnh chớ hoảng, sau đó hắn cẩn thận vươn tay ra, cầm lấy chuôi của đoản binh.

Đây là một con dao găm phổ thông, cầm thì vừa tay, nhưng hoa văn không hề tinh xảo, trong lò rèn cứ ba ngày là làm được một thanh, chẳng phải thứ hiếm có đáng tiền gì.

Nhưng Lý Ý Lan nhận ra nó, chính nó đã đâm thủng một lỗ ở ngực hắn, một dao phá hủy hết thảy nửa đời trước của hắn, đại ca của hắn, huynh đệ của hắn, niềm tin của hắn, sở học suốt đời của hắn.

Ánh mắt Lý Ý Lan trở nên u ám, còn chưa kịp nghĩ gì thì đã thấy trên mặt trái chủy thủ có dán một tờ giấy: “Số mười chín, phố Lai Xuân, phường Đại Nghĩa, đường Đông Cửu.

Không ngờ Lữ Xuyên lại ở Nhiêu Lâm, trong đầu Lý Ý Lan trăm mối nghi ngờ, nghĩ thầm một tâm phúc của thủ phụ như hắn, thời điểm quan trọng thế này lại đến đây làm gì? Hắn ôm hộp về sảnh chính, Ký Thanh vừa mở ra nhìn là lập tức nổi thói hóng hớt: “Gã nào đưa thế này? Huynh dù gì cũng là đại quan tam phẩm, lễ vật nghèo kiết hủ lậu như vậy mà cũng tặng được.”

Binh đao là hung khí, bình thường không ai mang đi tặng, cho dù muốn đưa cũng phải là có ý tốt, đồng thời thông báo trước, âm thầm gửi đến thì hơi hiếm thấy, những người khác cũng lấy làm lạ, đều dừng công việc trong tay để chuẩn bị nghe ngóng chuyện mới.

Đây là việc riêng của hắn, Lý Ý Lan không muốn nhiều lời, tay phải chỉ chỉ vào ngực, Ký Thanh biến sắc, ngượng ngùng câm miệng, vừa đồng tình vừa lấy lòng mà nhìn chủ nhân mình, đi tới nhận lấy hộp rồi ngoan ngoan bưng ra ngoài.

Đám người Ngô Kim không biết hai chủ tớ nhà này bí mật cái gì, song đều thức thời không gặng hỏi.

Lý Ý Lan cầm lấy giấy ghi khẩu cung, vừa lật vừa nói: “Các vị đều vất vả rồi, đêm nay không cần bận bịu như vậy nữa, hãy thả lỏng chút đi, sáng sớm mai vẫn tập hợp ở nơi này.”

Khi Ký Thanh quay lại thì thấy mọi người đang thu dọn đồ đạc, Ngô Kim đề nghị đi uống một chén, Giang Thu Bình lắc đầu từ chối, Trương Triều không lên tiếng, Ký Thanh rất muốn đi, nhưng Lý Ý Lan bảo mình muốn đi gặp một người bạn, vì vậy cậu đành phải làm trái lòng mình.

Sau khi mọi người giải tán, Ký Thanh ra khỏi nha môn, dừng ở phía sau liếc Lý Ý Lan mấy bận, cuối cùng vẫn không nén nổi hiểu kỳ, nhắc đến chuyện lúc nãy: “Lục ca à, thanh tiểu đao kia, thực sự là do cái người đả thương huynh ở dãy Hạ Dương đưa tới sao?”

Sáu năm trước, thổ ty thành ở Tây Nam Nhiêu Lâm có phản loạn, Võ Tuyển Thanh Lại ty đóng ở thành điều động toàn quân, tiếng nổ mạnh đến nỗi toàn bộ núi non trùng điệp ở thành Nhiêu Lâm phụ cận đều nghe được, Ký Thanh chạy đi xem trò vui, khắp núi toàn là thi thể và đất cháy bốc khói đặc cuồn cuộn, Lý Ý Lan thì đang bò lê trong cái địa ngục ấy.

(Thổ ty thành là những địa khu tự trị của dân tộc thiểu số, thuộc sở hữu của trung ương.)

Không biết bị thương ở đâu, vết máu phía sau hắn kéo đến tận đầu kia sườn núi, tựa như một sợi dây thừng buộc mệnh, mà cũng giống một con cự mãng nằm sấp trên đất.

Lúc ấy Ký Thanh nghĩ, người này chắc hẳn rất muốn sống tiếp, vậy nên sau đó cậu đã dâng hiến cây sâm núi hai trăm tuổi của mình.

Lý Ý Lan quả thực không muốn chết, hồi trẻ tính cách của hắn ngang ngạnh hơn bây giờ nhiều lắm, ngoài mặt có thể tỏ vẻ không nóng không lạnh, nhưng bên trong hoàn toàn là một người giang hồ, có ân báo ân, có thù báo thù.

Lữ Xuyên nợ hắn một đao, món nợ này nếu không thanh toán, hắn sẽ chết không nhắm mắt.

Tới tận giờ Lý Ý Lan vẫn chưa có người trong lòng, khi ấy nam nhi chí ở bốn phương, hắn cũng chẳng quá ràng buộc về tình thân, dựa vào ý chí kiên cường, bò hai ngày ba đêm trước quỷ môn quan, bấy giờ mới trở lại nhân gian đã không còn quen thuộc nữa.

Hắn ở trong tối bị người hãm hại, ngoài sáng thì bỗng dưng bị chụp tội ngầm cấu kết với phản tặc của thổ ty thành, có nhà cũng khó về.

Lý Di bị hắn liên lụy, đang trên đường phá án thì bị cách chức, tức giận đến độ ngất ngay tại chỗ.

Đại ca hắn vốn là người có tính cách mãnh liệt như mặt trời, tuyệt đối không tin hắn sẽ phản bội triều đình, bi phẫn tìm đến cửa cung xin gặp vua, nhưng chờ mãi mà chẳng được truyền gọi, còn bị lời âm dương quái khí của hoạn quan chọc tức, giữa lúc xô đẩy đầu đập vào cửa, rồi chẳng bao giờ tỉnh lại nữa.

Chuyện cũ rối ren, lòng người thì khó lường, thời gian rồi sẽ khiến con người ta quên lãng và khoan dung, từ biệt sáu năm, nếu chỉ nói là có hận thì quả thực hơi mong manh, vì vậy Lý Ý Lan lúc này cũng chẳng biết mình nên dùng thái độ gì để đối mặt với Lữ Xuyên.

“Đoán nhiều vô ích,” Lý Ý Lan cảm xúc phức tạp, nói, “Cứ đi gặp là biết.”

Ký Thanh sợ chọc hắn không vui, liền ngoan ngoãn im lặng, nhưng cậu ta bẩm sinh là kẻ lắm lời, chẳng mấy chốc đã lộ nguyên hình, xoa cằm nghĩ vớ nghĩ vẩn: “Không có bẫy đấy chứ? Thời điểm này có hơi vi diệu đúng không? Hay là chúng ta đừng đi, phái mấy nha dịch đi thay là được.”

Lý Ý Lan đi sau nửa bước, vừa vặn vỗ vai Ký Thanh: “Sợ cái gì? Có Hồ đại hiệp đệ ở đây, an toàn của ta không thành vấn đề.”

Lữ Xuyên thả mồi, hắn nhất định sẽ tiếp, hắn không giống người bình thường, hắn không có cơ hội lãng phí thời gian, cho nên rất nhiều chuyện khi cần quyết đoán thì sẽ quyết đoán, không suy nghĩ nhiều, cứ đi lên nghênh đón.

Ký Thanh cũng lên tinh thần, lập tức quên mất bản lĩnh của mình được mấy cân mấy lượng, vui vẻ đi theo sát hắn.

Phố Lai Xuân là một con hẻm nhỏ, đường rộng chừng năm thước, góc tường còn xếp một ít nồi niêu chậu sọt, hiện ra mùi khói lửa, Lý Ý Lan rẽ vào cái lều vải nát ở đầu hẻm, tìm nhà số mười chín rồi dừng chân lại.

Đây là một căn nhà dân, mặt tiền làm cửa hàng, chiếc biển nhỏ trên đầu ghi “Hà Đồn cư”, hai bên không có câu đối, trên cửa dán bảo đơn, chữ viết trải qua gió dãi mưa dầm, màu sắc đã phai nhạt, từ phải sang trái lần lượt viết là:  (Hà đồn: cá nóc)

Ăn một bữa ngon, chết cũng chẳng oan, đóng dấu làm chứng, độc chết đền mạng.

Lý Ý Lan nhìn mà trong lòng ngũ vị tạp trần, đây là phong cách hành sự của Lữ Xuyên, phóng khoáng trực tiếp, dám nói dám làm, kẻ này thích ăn cá, đặc biệt là cá nóc, nơi này là nhà hắn, không sai vào đâu được.

Ký Thanh đứng ở cửa nhìn tới nhìn lui, tặc lưỡi trong lòng, ôi chà, cậu nhủ thầm, Lý Ý Lan chưa từng nói với cậu cao thủ đánh lén là một ông chủ hàng cá.

Lý Ý Lan ngẩn người xong thì liền tiến lên giơ tay gõ cửa, gõ ba tiếng hai dài một ngắn.

Nhưng chủ nhân của Hà Đồn cư lại không có nhà.

Lý Ý Lan đi chung quanh hỏi thăm, mới biết Lữ Xuyên làm tiêu sư ở Chấn Hùng tiêu cục trong thành, buổi chiều vội vã chạy về, thu thập một bọc quần áo rồi ra khỏi nhà, bảo là muốn ra ngoài hai ngày, nhờ thím hàng xóm cho gà vịt ăn thay hắn. (Tiêu sư là người đi theo những thương đội vận chuyển hàng quý giá để bảo vệ người và của cải, thường có võ công cao cường. Nghề này có từ thời Bắc Tống)

Ký Thanh đi một chuyến tay không nhưng hoàn toàn chẳng tức giận, so với đối chiếu công văn váng đầu hoa mắt, cậu thích đi dạo loanh quanh hơn, vả lại con đường ban nãy mới mở chợ đêm, tiện thể ghé qua kiếm gì ăn luôn.

Lúc đi vào, vì trong lòng có mục đích nên Lý Ý Lan chủ yếu chỉ nhìn số nhà, ra khỏi con phố này chẳng có gì làm, lực chú ý của hắn phân tán khắp nơi, khi đi ngang qua một hộ gia đình, hắn trông thấy ở đầu cửa có treo một lá cờ trắng mới tinh.

…….

Phương trượng của Chiêu Đàn tự pháp hiệu là Liễu Nhiên, mặt tròn người đậm, rất có phúc thái của Phật Di Lặc.

Tăng chủ bỗng nhiên đại giá quang lâm, đúng lúc cách pháp hội không xa, phương trượng vô cùng mừng rỡ, tự mình an bài thiện phòng, mời Tri Tân ở lại thêm chút thời gian.

Thứ nhất là vì tìm kiếm vật bị mất của Từ Bi tự, thứ hai là quan phủ cũng có lệnh cấm túc, Tri Tân từ chối thì bất kính, liền nghe theo an bài của phương trượng, ở lại phòng ngủ trong hậu viện.

Phương trượng ngồi trên bồ đoàn, vừa dâng trà vừa cười nói: “Tăng chủ vân du đến dây, chẳng hay là vì cơ duyên gì?”

Tri Tân thần thái thẳng thắn: “Cũng không phải là cơ duyên gì cả, là ta cố ý đến đây.”

Phương trượng lộ vẻ buồn bực, Tri Tân thấy thế bèn giải thích: “Chín năm trước, trong Tàng Kinh các của Từ Bi tự bị mất một món đồ, không phải kinh cũng chẳng phải sách, là một quyển đàm lục, tên là《Mộc Phi Thạch Đàm Lục》, lần này ta xuống núi, chính là để đi tìm nó.”

Kỳ thực vật mà Từ Bi tự thực sự muốn tìm chính là Phật cốt xá lợi, quyển đàm lục này chỉ xếp thứ hai thôi.

Năm đó, hai vật không hề liên quan này đồng thời biến mất, đêm hôm trước, tiểu tăng quét tước phát hiện Tàng Kinh các bị trộm, kinh quyển phạn văn bị lục lọi tứ tung, sau khi thu dọn đối chiếu thì phát hiện thiếu mất quyển đàm lục này, ngày hôm sau Tri Tân lên Phật tháp quét bụi, mới phát hiện xá lợi bị đổi thành “dương chi mỹ ngọc” hình dạng tương tự.

Ngọc là hảo ngọc thượng đẳng, thật khiến người ta không hiểu nổi dụng ý của tên trộm này, nếu là ăn trộm thì hà tất phải làm chuyện thừa thãi như thế?

Tên trộm ở nơi này cả một đêm, Từ Bi tự yên ắng không một động tĩnh, đến rồi đi chẳng để lại chút tung tích nào. Mà Từ Bi tự vì bảo vệ tôn nghiêm của Đại Thừa Phật tự nên cũng không điều tra rầm rộ.

Bảy tám năm trước khi bạch cốt án phát sinh, trưởng lão trong chùa và Tri Tân đều nhất trí cho rằng, tên đạo tặc năm đó là vì giương Đông kích Tây, cố ý xáo trộn Tàng Kinh các đồng thời trộm đại một quyển sách, mục đích là để dời sự chú ý khỏi viên xá lợi bị mất.

Xá lợi mấy năm qua vẫn chẳng có bất cứ tin tức gì, năm vụ Bạch cốt án liên tiếp phát sinh, kỳ quái trái lẽ thường, khiến Từ Bi tự rốt cuộc ý thức được, việc này có lẽ liên quan đến quyển đàm lục khó hiểu kia.

Nếu đúng là như thế, vậy thì《Mộc Phi Thạch Đàm Lục》gặp được người hữu duyên, tìm hiểu ngọn nguồn, xá lợi mà không ở phía sau bạch cốt án thì hẳn cũng cách nó chẳng xa.

Có điều Phật cốt nức tiếng gần xa, giang hồ đủ thứ truyền thuyết, nếu lộ ra ngoài thì không biết sẽ khiến bao nhiêu kẻ tranh đoạt, trong chùa tính tới tính lui, cuối cùng quyết định dùng một bản thảo không quá nổi tiếng để che giấu tai mắt người.

Liễu Nhiên phương trượng không biết nội tình trong này, nghe vậy thì mặt lộ vẻ suy tư.

Nếu là thư tịch bình thường thì sẽ không cần tăng chủ tự mình đi tìm, ắt hẳn sách này có chỗ không tầm thường, phương trượng nghĩ tới nghĩ lui mà vẫn mù mờ, đạt đến cảnh giới của trụ trì, vô tri không nên bị xem là nhục nhã, ông cười nói: “Lão nạp tài hèn học ít, chưa nghe đến tác phẩm này bao giờ.”

Tri Tân lắc đầu không tán đồng: “Phương trượng quá lời rồi, nó không truyền lưu ở bên ngoài, cũng không có tiếng tăm gì, chẳng qua là tâm huyết cả đời của Siêu Cốc đạo trưởng – hảo hữu của sư phụ ta, trước khi lâm chung đã tặng cho người, tình cảm và cơ duyên nhường ấy không dám coi thường, vậy nên mấy năm qua chưa lúc nào ngừng tìm kiếm.”

Phương trượng cũng chưa từng nghe tới danh hào của Siêu Cốc đạo trưởng, có điều tiềm long tại uyên, bạn bè của cao tăng chắc chắn cũng không phải phàm phu tục tử, Liễu Nhiên phương trượng nói: “A Di Đà Phật. Nếu tăng chủ đã nói rõ mục đích đến, vậy hẳn là cần sự hỗ trợ từ phía ta?”

Tri Tân cười: “Phải.”

Phương trượng: “Xin tăng chủ cứ phân phó, Chiêu Đàn tự đương nhiên sẽ dốc hết sức mình.”

Tri Tân từ tốn nói: “Phân phó thì không dám, chỉ dám thỉnh cầu.”

“Đạo trưởng cả đời si mê cơ quan, tự phong đạo hiệu là Siêu Cốc, ngụ ý chính là vượt qua Quỷ Cốc Tử[1].《Mộc Phi Thạch Đàm Lục》là một bản thảo tâm đắc có liên quan đến mộc giáp thuật[2], lời tựa ghi rằng người có duyên với cơ quan nếu xem sách này, có thể khiến chim đá tung bay, gỗ mục chớp mắt, có thể nói là vô cùng huyền bí.”

“Tuy nhiên người trong chùa ta, bao gồm cả sư phụ ta Hư Hoài thiền sư, đều không có duyên phận gì với đạo trưởng,《Đàm Lục》chìm nghỉm nhiều năm ở Tàng Kinh các, sau khi bị đánh cắp cũng vậy. Mà năm nay liên tiếp xuất hiện bạch cốt án, khiến chúng ta không hẹn mà cùng liên tưởng đến quyển bản thảo này.”

“Chim đá, gỗ mục đều là đồ vật không động, hóa không động thành động, không thể thành có thể, chữ viết trên bạch cốt án cũng mang ý tương tự.”

Phương trượng gật đầu tán đồng: “Dường như đúng là thế, vậy tăng chủ cần chúng ta làm chuyện gì?”

Tri Tân cảm kích nói: “Nếu trong chùa có đệ tử tục gia nào đáng tin cậy, xin phương trượng hãy hẹn cho ta gặp mặt.”

…….

Giang Thu Bình dậy từ sớm tinh mơ, đến nhà bếp húp bát cháo rồi lại sang sảnh chính, cửa đã khóa lại, chìa khóa nằm trong tay y.

Sau giờ Thìn, mọi người lục tục đến đông đủ, năm người bọn họ cùng tụ lại, đẩy quận trưởng và sư gia của ông ta ra ngoài, bắt đầu bàn luận chính sự.

Ngô Kim chình ình ngồi banh chân, tay cầm xấp bản khai, miệng ngậm nhánh cây khô hái ở trong sân, lúc nói chuyện nhánh cây kia cứ vung vung vẩy vẩy trước mặt hắn, chẳng có tí nghiêm túc nào: “Trời ơi, trong miệng đám lão thiếu gia này toàn ngậm đại la thần tiên à, nhìn mớ lời khai này xem, chẳng kém tiên sinh thuyết thư chút nào.”

Lý Ý Lan hiểu rõ sự khổ sở của Ngô Kim, bởi vì trong tay hắn là tờ giấy vẽ một bộ xương khô đứng thẳng, trong hốc mắt có hai ngọn lửa nhỏ bập bùng, căn cứ theo mô tả của một vị bách tính chứng kiến, đúng là làm khó Trương Triều, phải mang cái mặt đơ vẽ hết bức này đến bức khác mà chẳng ngại phiền.

Có cái còn vô căn cứ hơn, chẳng hạn như xương hàm đóng mở lập cà lập cập, gió lạnh thổi từng cơn, lưỡi hái gọi hồn xanh biếc chợt ẩn chợt hiện, phải nói là tràn đầy màu sắc thần thoại.

Mọi người dở khóc dở cười, song vẫn phải làm việc nghiêm túc, cứ ngươi một câu ta một lời, tốn hơn nửa ngày kiểm tra sơ bộ, cuối cùng tìm được một lời khai tương đối đặc biệt.

Giang Thu Bình chỉ vào tờ khẩu cung kia: “Bà lão này nói rằng lúc ấy mình cách mộ của Vu Nguyệt Đồng khá gần, chỉ khoảng hai trượng, lời khai của bà ấy không giống mấy cái quỷ khóc sói gào của người khác, bà ấy nói mình nghe được một thứ động tĩnh, giống như thể guồng quay tơ.”

Trước mắt Lý Ý Lan bất chợt trống rỗng, trong thoáng chốc, lần này hắn đã bắt được ý nghĩ nhanh như chớp kia.

Bộ xương trên diều, đào hát biến thành xương khô ở xã hí, cùng với âm thanh như guồng quay tơ này, cả ba đều có liên quan đến một thứ.

Dây.

******

★Chú thích:

[1]Quỷ Cốc Tử: là một bậc thầy về tướng số, thuật pháp, bói toán, phong thủy….. Ông sống ở một hang núi gọi là “Quỷ Cốc” nên tự đặt cho mình cái tên “Quỷ Cốc Tử”.

[2]Mộc giáp thuật: là thuật chế tạo rối gỗ sống động linh hoạt như thật, có thể đi đứng hoạt động như người sống. Ghi chép cổ trong “Liệt Tử” kể rằng:

Chu Mục Vương đến núi Côn Lôn săn bắn, khi trở về có đi qua vùng Ba Thục thì gặp Yển Sư – một người thợ thần bí. Bên cạnh Yển Sư lúc đó có một người kỳ dị toàn thân trên dưới đều mang màu vân gỗ. Chu Mục Vương bèn hỏi là ai. Yển Sư trả lời rằng: “Đây không phải người thật, đây là mộc giáp nghệ linh do ta chế tạo thành.”

Người gỗ này sống động như thật, có thể hoạt động như người. Chu Mục Vương bèn gọi thị thiếp của mình đến cùng xem người gỗ biểu diễn. Khi màn biểu diễn kết thúc, người gỗ chớp mắt một cái, Chu Mục Vương liền tức giận trách cứ Yển Sư vì cho rằng ông ta dán lá gỗ lên người thật để lừa mình. Yển Sư bình tĩnh bảo vua hãy nhìn kỹ lại. Thì ra người gỗ này được làm tinh xảo từng chân tơ kẽ tóc, ngay cả nội tạng cũng có đủ cả, Yển Sư đã tạo ra một người gỗ sinh động đến nỗi sánh với tạo vật của thiên địa.

Tiếc rằng sau này mộc giáp thuật của Yển Sư đã thất truyền, không còn lưu lại trong nhân gian.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện