Quần áo ba kẻ nọ rách nát dính máu, chắc mới thoát ra khỏi một trận ác chiến cách đây không lâu.

Mà y phục của Bạch Kiến Quân không hề nhếch nhác một chút nào, nếu không phải ông ta đã thay đồ thì ắt là có người hỗ trợ, hoặc là thực lực của ông ta cao hơn rất nhiều, một mình đối đầu với ba kẻ này mà vẫn dư sức ứng phó dễ dàng.

Lý Ý Lan nghiêng về khả năng thứ ba hơn, hắn chào Bạch Kiến Quân sau đó nhìn về phía người bị bắt, biết rõ nhưng vẫn hỏi: “Tiền bối, ba vị này là ai?”

Hắn biết nữ nhân này có liên quan với thương buôn quạt, thế nhưng khi ấy Bạch Kiến Quân vẫn chưa xuất hiện, cũng không biết rõ về mối liên hệ trong đó. Không phải Lý Ý Lan nghi ngờ ông ta, chỉ là hắn hiếu kỳ Bạch Kiến Quân bắt người bằng bản lĩnh gì.

Bạch Kiến Quân đưa dây thừng dắt người cho nha dịch, sau đó bảo với hắn: “Đám lạ mặt này lẩn trốn trong thành, hành vi lén lút, lại biết võ công, hẳn là kẻ các ngươi muốn bắt.”

Lý Ý Lan liếc nữ nhân kia một cái rồi đáp: “Có lẽ vậy, làm phiền tiền bối rồi, mời ngài ngồi xuống nói chuyện.”

Mọi người lần lượt tìm ghế ngồi xuống, Tri Tân vốn đang chuẩn bị ra ngoài tìm thợ đá, nhưng Lý Ý Lan lại kéo y, chỉ vào chiếc ghế ngoài cùng bên trái, ý là mời y ngồi ở đó. Tri Tân không tiện làm mất mặt hắn, đành từ bỏ ý định rời đi.

Chỉ sau vài giây mọi người đều đã an vị, ba kẻ kia lạnh lùng đứng ở chính giữa, cũng giống bốn tên trong ngục, dường như cột sống bọn chúng đều làm bằng sắt.

Giang Thu Bình nhìn đám người thôi liền thấy đau đầu, trong lòng tự động đổi câu “Có lẽ vậy” của Lý Ý Lan thành “Chắc chắn là vậy”.

Lý Ý Lan đúng lúc tiếp tục đề tài: “Ba kẻ này bị bắt ở nơi nào? Tiền bối làm sao phát hiện ra hành tung của bọn chúng?”

Bạch Kiến Quân ngồi xuống ghế bên phải, nói: “Cũng giống với thương buôn quạt, người của bọn ta hỏi thăm được từ hàng xóm.”

“Mấy tháng trước có một gia đình ở phố Thiên Hành lên kinh sư thăm họ hàng nên giao chìa khoá nhà cho thúc bá trông coi, mấy hôm trước lúc lục soát toàn thành vị thúc bá kia còn mở cửa cho quan binh khám xét rồi, trong nhà quả thực không có một bóng người.”

“Mãi đến tận chiều hôm qua, bà chủ nhà hàng xóm của gia đình này đi tìm một người thợ làm nến ở cùng phố, đặt thợ làm hai cây nến nhang khắc bùa nặng nửa cân.”

“Nến nhang khắc bùa có lưu ý là phải hiện rõ chữ chạm khắc, người vợ không chỉ muốn bùa đuổi quỷ mà còn hối thúc rất cấp bách. Thợ làm nến hỏi ra mới biết gần đây gia đình này mọi sự không thuận, ban đêm hai vợ chồng ngủ li bì khó tỉnh, thường xuyên mơ thấy trong nhà có bóng ma quỷ phập phù, sau khi tỉnh dậy thì tinh thần rệu rã phờ phạc, cứ như thể bị bóng đè. Tuy nhiên hai vợ chồng nhà này cũng không tin quỷ thần cho lắm nên cứ mặc kệ.”

Vương Kính Nguyên nghĩ bụng chuyện kiểu này đáng lẽ nên tìm hắn mới đúng, bảo đảm sẽ cúng bái hành lễ đến khi tai hoạ tiêu biến, vĩnh viễn diệt trừ hậu hoạn. Song hắn giỏi nhìn mặt đoán ý, trực giác mách bảo hắn rằng Bạch Kiến Quân là kẻ không thể trêu chọc, cho nên không dám ngắt lời.

Mọi người nghe Bạch Kiến Quân kể tiếp: “Chiều hôm qua, người chồng trèo lên cây hái táo, nhìn thấy trên chạc cây có một dấu chân nhân dính vết bùn và rêu xanh, doạ ông chồng sợ đến nỗi ngã gãy cả chân. Bấy giờ người vợ mới đứng ngồi không yên, chạy đi tìm một bà đồng, bà đồng yêu cầu làm nến nhang, thế là chuyện ma quái này liền lan truyền đến xưởng nến.”

Lý Ý Lan nghe đến đó thì đã hiểu: “Sau đó người thợ làm nến kia trùng hợp lại là người của Khoái Tai môn, đúng chứ?”

Bạch Kiến Quân đáp “Ừ”, nhìn về phía ba kẻ kia nói: “Lũ người này đúng là gian xảo, bọn chúng ẩn náu trong phòng chứa củi của gia đình đi vắng nọ, gặp quan binh lục soát thì trèo tường trốn sang nhà hàng xóm, chờ quan sai rời đi rồi thì lại trèo về.”

Giang Thu Bình đăm chiêu nói: “Vậy dấu chân trên câu táo là do bọn chúng bất cẩn để lại dấu vết khi trèo tường vào ngày mưa dầm, cũng chính là trong mấy ngày khoảng mùng chín, mùng mười. Còn bóng đè mà vợ chồng hàng xóm gặp phải cũng không phải quỷ thần giở trò, mà là do họ trúng thuốc mê?”

Bạch Kiến Quân lấy một bọc vải nhỏ từ trong ngực ra, lúc đưa cho Lý Ý Lan cái bọc kia còn phát ra tiếng kim loại va chạm khe khẽ. Ông ta trả lời: “E là thế, ta có tra hỏi nhưng bọn chúng không hé răng, các ngươi tự thẩm tra xem. Đây là ám khí mà bọn chúng sử dụng trong lúc giao thủ với ta, ngươi xem xem có hữu dụng hay không.”

“Với cả, bọn chúng bị bắt rất vội vàng, trong phòng chứa củi có thể còn cất giấu một vài thứ nữa, hoặc cũng có thể không có. Ta đã sai người canh giữ nơi ấy rồi, các ngươi phái người đi lục soát đi.”

Người này không chỉ hành động nhanh gọn mà còn mang về thành quả rõ rệt, hợp tác cùng quả đúng là thoải mái. Lý Ý Lan thực lòng cảm kích, liền đưa hai tay nhận lấy bọc vải rồi đứng lên trịnh trọng vái Bạch Kiến Quân một cái: “Đa tạ tiền bối.”

Bạch Kiến Quân lạnh nhạt nhận đại lễ của hắn, cảm thấy người trẻ tuổi này rất khá, vừa có bản lĩnh cao cường, đã thế còn không hề làm giá, ông ta rất ưng ý.

Lý Ý Lan cảm ơn xong liền ngồi về chỗ, lần lượt ra mệnh lệnh cho từng người. Hắn phái Ngô Kim giải phạm nhân mới vào nhà lao, Giang Thu Bình dẫn theo Tri Tân đi tra tịch trướng bộ trong thành, xong việc lại đến nhà lao nghe thẩm tra, Trương Triều dẫn người đến phố Thiên Hành lục soát phòng chứa củi, Ký Thanh và Vương Kính Nguyên cho mời vị thúc bá của gia đình kia về hỏi chuyện. Còn bản thân hắn thì phụ trách tiếp đãi Bạch Kiến Quân, thuật lại cho vị tiền bối này về cơ chế khiến bộ xương đứng dậy. (Tịch trướng bộ: sổ sách ghi chép về đăng ký hộ khẩu, thuế má, đất đai của người dân thời xưa.)

Mọi người nhận mệnh lệnh của mình, tức tốc tản ra đi làm nhiệm vụ.

——

Ngày hai mươi, đầu giờ Tỵ, tại Khố bộ ở Giang Lăng. (Khố bộ: bộ phận chuyên cất giữ vũ khí, quân giới.)

Từ sáng sớm Tiền Lý liền ăn vận đơn giản, chỉ dẫn theo một thị vệ chờ ngoài nha môn Khố bộ, Trí lang trung nghe tin vội vã chạy tới, cung kính dẫn ông vào trong nha môn.

Tiền Lý cũng không quanh co lòng vòng mà đi thẳng vào vấn đề luôn, đưa ra yêu cầu muốn điều tra bao tên bị mất. Trí lang trung chủ quản kho vũ khí kia bày vẻ mặt đưa đám, than vãn thời gian quá ngắn nên không kịp tra rõ.

Đây là thủ đoạn mà đám quan lớn trong kinh quen dùng, cứ rề rà lần lữa, không làm chính sự, chỉ lo đắc tội bất cứ phe phái nào, cho nên chuyện bé như con muỗi cũng không làm nổi.

Tiền Lý không muốn đắc tội ông ta, chỉ là đám người này đều cẩn thận kín kẽ, kết quả sẽ chặn đường điều tra của ông. Tiền Lý tử chiến đến cùng, cũng chẳng lo năm sau vận làm quan còn có thể thông thuận hay không, quyết nhắm mắt trực tiếp rút củi dưới đáy nồi, kẻ nào không phối hợp thì kéo xuống dưới nước.

Giờ phút này Trí lang trung giở giọng quan khéo léo ngăn cản ông điều tra, Tiền Lý không tức tối mà vuốt vuốt chòm râu thưa thớt dưới cằm, cười nói: “Ta cũng không muốn làm khó dễ ngài, không chỉ ngài mà cả trứ tác lang Chu đại nhân, Tư chủ sự của Thủ Tàng ty, diêm thiết sứ của tam ty, tất cả đều là đồng liêu mà lão phu đã làm việc cùng suốt nhiều năm, ngày thường gặp gỡ nhau thường xuyên, có thể dĩ hòa vi quý thì tất nhiên là tốt nhất.”  (Trứ tác lang: chức quan biên soạn lịch sử quốc gia.)

“Có điều bây giờ đồ đao đang treo lơ lửng trên đầu ta, ngày ngày lo lắng đề phòng, trước mắt không dám đòi hỏi phải phá được án mà chỉ mong ít nhất có thể có chút tiến triển để dễ bề báo với bên trên rằng Tiền Lý này không hoàn toàn vô năng.”

Ông đã tự hạ mình quá thấp rồi, làm Trí lang trung nghe mà xấu hổ không để đâu cho hết, chỉ cần liếc mắt cũng hiểu ngay kẻ nào mới là vô năng. Đối phương có cấp quan cao hơn nên ông ta không dám im lặng, chỉ có thể ra vẻ khổ sở mà tâng bốc Tiền Lý, mượn lời đó để biểu đạt tự khanh đại nhân mới khiêm tốn ra sao, bản thân mình kính ngưỡng biết nhường nào.

Tiền Lý thiếu điều được tâng bốc thành Bao Long Đồ tái thế, tuy nhiên chỉ vài câu nịnh bợ không thể đả động được ông, ông lắc đầu cười, không khách sáo gạt phăng chiêu trò này đi: “Lão phu quả thực không nhận nổi những lời ca tụng của lang trung đại nhân, nếu bây giờ ngài không có manh mối thì ta cũng không dồn ép nữa, cáo từ.”

Trí lang trung ước sao vị ôn thần bới lông tìm vết này đi nhanh nhanh cho, ông ta lập tức khom lưng làm tư thế tiễn khách: “Đa tạ tự khanh thông cảm, ngài bộn bề công vụ, hạ quan không níu kéo thêm nữa, ngài đi thong thả ạ.”

Tiền Lý đứng dậy, giũ mạnh tay áo phải, quay lưng về phía sau, cười lớn rằng: “Ha ha ha, hiền đệ, không thong thả được rồi, Diêm vương đang ở trên đường hối thúc ta rồi.”

Gió ngược chiều ngoài căn phòng thổi tốc góc áo của ông, khiến ông như có một loại khí thế một đi không trở lại.

Câu cuối không đầu không đuôi của ông làm Trí lang trung sợ hết hồn, bởi vì chột dạ nên trong bụng cũng đâm ra sợ hãi, ông ta ngó trái ngó phải hai vòng rồi chầm chậm đuổi theo: “Xin Tự khanh gượm đã, sao có thể nói ra lời chẳng lành như thế chứ? Ngài mau thu lại đi, phỉ phui phỉ phui.”

“Từ lâu đã chẳng lành rồi, có quan trọng chi đâu.” Tiền Lý quay đầu lại, chắp tay hướng về bầu trời phía trước.

“Thời gian cấp bách mà gian nan chồng chất, tình hình chỗ mấy vị đại nhân khác chắc chắn cũng giống thế này, trong lòng ngài và ta đều hiểu rõ. Từng đường đi nước bước liên tục gặp khó khăn, dù cố điều tra cách mấy cũng chỉ tổ lãng phí thời gian, vậy ta sẽ tiến cung gặp hoàng thượng, cầu xin người lập tức ban cho ta cái chết, tìm một hiền tài khác gánh vác trọng trách phá giải vụ án không có đầu mối này. Lang trung đại nhân à, hãy dừng chân lại đi!”

Giọng ông lúc nói câu cuối nặng vô cùng, doạ lang trung ứa mồ hôi lạnh.

Chờ xong hết mười ngày, đến khi hoàng thượng và thái hậu tức điên lên rồi, vị tự khanh này thích chết thì chết. Nhưng thời hạn giải án mới qua một ngày mà lão đã đòi đến điện Thái Hòa đập cột tự vẫn, đến lúc ấy hoàng thượng hỏi lão tại sao không muốn sống nữa, lão thất phu này nói điều tra theo hướng nào cũng không có manh mối, không bột đố gột nên hồ, vậy thì tội sẽ rơi xuống đầu nha môn bọn họ – những kẻ không chịu giao ra manh mối.

Đây chính là tiên hạ thủ vi cường. Trí lang trung không hổ là kẻ già đời chìm nổi mấy chục trong chốn quan trường kinh thành, ông ta lật mặt ngay tắp lự, từ tiễn khách đổi thành giữ khách, lôi lôi kéo kéo níu Tiền Lý lại bằng được.

“Ôi chao tự khanh của ta ơi, ngài không thể nghĩ như vậy được. Từ sau khi đại công tử Lý gia qua đời, ngành đề hình chỉ có mỗi lão ca là Thái Sơn Bắc Đẩu thôi, vụ án này trừ ngài ra thì không ai phá được hết! Ngài chớ tức giận, là do lỗi của ta mà mãi không có thông tin về bao tên, ta lập tức lấy công chuộc tội, cho dù không ngủ không nghỉ cũng nhất định phải cho ngài một câu trả lời. Ngài hãy tin tưởng ta, hãy cho ta vài ngày thôi.”

Tiền Lý gồng sức không chịu lui về sau, đường nét sườn mặt cực kỳ lạnh lùng cứng rắn: “Chín ngày cũng gọi là vài ngày, e là ta đợi không nổi rồi.”

Nếu đã quyết định đưa ra câu trả lời thì chẳng thà bán đi một ân tình, Trí lang trung nghiến răng nói: “Ngày mai, muộn nhất là ngày mai, ta sẽ sai người giao thư đến quý phủ.”

Thực lòng Tiền Lý hi vọng ông ta sẽ đưa ra câu trả lời ngay hôm nay, song ông biết việc này là không thể, bởi vì ắt hẳn Khố bộ còn chưa bắt đầu điều tra. Tiền Lý thở dài, chắp tay nói: “Một lời đã định rồi đấy, ngài không cần gửi tới tận nơi đâu, ta sẽ sai người tới lấy. Giờ ta xin cáo từ thật nhé, đa tạ ngài.”

Ông vội vã đến rồi vội vã đi, Tiền Lý leo lên xe ngựa, lệnh cho thị vệ nhanh chóng chạy đi.

Sư gia Hứa Chi Nguyên và ông đã chia quân hai đường, Hứa Chi Nguyên mang theo bái thiếp tới thẳng trung thư tỉnh để tìm vị trứ tác lang Chu đại nhân có trao tổi thư từ với hiệu bạc Phong Bảo Long, do đó theo như phân công thì tiếp theo ông sẽ đi tìm diêm thiết sứ của tam ty.

Về phần Thủ Tàng ty, ông đã phái người mang theo tranh vẽ thương buôn quạt đi hỏi binh lính từng làm việc ở Quân Khí giám vào năm Phụng Thiên thứ mười ba. Cách này rất ngu ngốc, cũng chưa chắc hữu hiệu, bởi vì những người này cách trung tâm quyền lực quá xa, khả năng cao là bọn họ sẽ chẳng biết gì, mà Quân Khí giám vốn luôn thần bí, hồ sơ lại bị hủy sạch không còn một mống, đây cũng là biện pháp đường cùng.

Tam ty cách Khố bộ nửa canh giờ đi xe, trên đường đi, Tiền Lý tranh thủ ngồi trong buồng xe xem công văn của Tiên Cư điện.

Tây cung là chốn cao quý, không phải nơi người bình thường có thể tùy ý ra vào, Tiền Lý chỉ đi qua một chuyến, mới tra xét chưa tới hai canh giờ đã bị mời khéo ra ngoài.

Mặc dù gây ra chấn động rầm rộ, hai cung nữ và một thái giám bị đánh chết tại chỗ, ngoại trừ đại cung nữ và đại thái giám thân cận thì toàn bộ người hầu hạ ở Tiên Cư điện lúc trước đều bị nhốt vào Dịch U đình, người đưa cơm ở ngự thiện phòng cũng phải chịu cực hình, nhưng manh mối điều tra được lại hết sức ít ỏi. (Dịch U đình: nơi xử phạt cung nữ, nô tài.)

Không có kẻ khả nghi, không có lời khai mâu thuẫn, cực hình tàn khốc có thể khiến người nhận tội nhưng không khai ra được quá trình gây án, tất cả đều giống hệt bạch cốt án trước đó.

Vì nam tử không tiện vào cung, trong cung phá lệ cho Đại Lý tự lấy đi đồ vật được cho là có liên quan tới vụ án. Cửa Tiên Cư điện, thùng như ý, thậm chí đồ ăn sáng ngày mười chín, đều bị lấy làm vật chứng.

Tiền Lý không may mắn bằng Lý Ý Lan, trước gặp được Tri Tân sau lại gặp Vương Kính Nguyên, gần đây còn nhận được sự giúp đỡ từ Khoái Tai môn, ông không biết về đàm lục, không biết ảo thuật đổi màu, trước sau vẫn khó tìm ra thủ đoạn của vụ án này.

Trên đường đi ông xem lại công văn khẩu cung hết lần này đến lần khác song không phát hiện được gì, cuối cùng bỗng nhiên nảy ra sáng kiến, quyết định sao chép toàn bộ hồ sơ vụ án một lượt rồi phái người thúc ngựa đưa tới Nhiêu Lâm. Tính lộ trình thì muộn nhất là tối mai khâm sai sẽ đến Nhiêu Lâm, nếu xuất phát ngay bây giờ thì người đưa tin của ông có thể chaạ mặt đội ngũ kia trên đường vòng về.

Nửa khắc sau, Tiền Lý gặp được diêm thiết sứ tại tam ty, vị quan này có thành ý hơn Trí lang trung nhiều, cứ cầm sổ sách nói qua nói lại. Tiền Lý nhận thấy diêm thiết sứ cần thêm thời gian thật nên cũng tỏ ra thông cảm, chỉ khẩn cầu đối phương mau chóng trả lời.

Sáng nay ông ở bên này đụng phải hai cây đinh, sư gia bên kia thì cầm thư của chưỡng quỹ Phong Bảo Long đi hỏi Chu đại nhân mà ông ta như thể mèo bị dẫm phải đuôi, không thèm nói lời khách sáo mà cậy mạnh đuổi đánh Hứa Chi Nguyên ra ngoài.

Trích lời ông ta thì Hứa Chi Nguyên là cái thá gì mà dám chất vấn một trứ tá lang như ông ta.

Hứa Chi Nguyên tức muốn chết, bị đuổi ra ngoài cũng không đi mà chờ ở ngoài cửa, sai tùy tùng lập tức đi gọi Đại Lý tự khanh thừa đích thân tới hỏi ông ta.

——

Giờ Tỵ khắc hai, Nhiêu Lâm, xưởng đá Ích Cầu.

Theo như tịch trướng bộ ghi chép, xưởng đá trên sườn núi năm dặm ở thành Đông đã kinh doanh nhiều năm, từ những sản phẩm nhỏ như bia mộ đến lớn như cầu đá bọn họ đều có thể đẽo được, chắc hẳn cũng có thể đẽo được một tảng đá rỗng ruột. Vì vậy vừa rời khỏi nha môn, Tri Tân liền trực tiếp đến thẳng nơi này.

Đi theo y tới đây còn có hai nha dịch, ba người tập hợp lại với nhau nom rõ là lạ lùng, khiến thợ trong xưởng đá cứ liên tục nhìn chòng chọc.

Giữa những ánh nhìn không có nhiều ác ý và chế nhạo ấy, Tri Tân nghe thấy một tiếng “Đại sư”, y quay người, trông thấy một thợ đá ở cách đó không xa đang chạy về phía mình. Người nọ xách theo một chiếc chuỳ sắt, người toàn sẹo là sẹo. Hắn cười tươi roi rói, tươi đến mức che mờ đi sự đáng sợ của những vết sẹo, Tri Tân nheo mắt suy nghĩ một hồi, không thể nhớ ra đây là ai.

Chẳng mấy chốc thợ đá nọ đã chạy tới trước mặt y, hắn thở hổn hển, vui vẻ nói: “Sao đại sư lại tới nơi này? Ủa? Không nhận ra ta sao? Là ta, Sử Viêm đây mà.”

Nhìn vẻ phấn khích của hắn, Tri Tân ngẩn ngơ nhủ thầm, thì ra dáng vẻ con người ta sau khi có được cuộc đời mới là như thế này sao.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện