Sau khi rời quán nhỏ của bà cụ, năm người chia làm hai đường, Giang Thu Bình và Trương Triều chọn đến cổng Tây, ba người còn lại đi theo hướng Đông, vào giờ Mùi khắc ba đã tới cổng thành.
Nhiêu Lâm tuy là thành nhỏ, nhưng vì gần kinh đô nên cổng thành quanh năm đều tấp nập người đến người đi.
Lý Ý Lan hết sức quen thuộc nơi này, một mình đi trước dẫn đường, tiến thẳng đến phủ tướng quân, khi tới cửa bèn giơ lệnh bài ra, được người cung kính dẫn vào.
Lệ Trung tướng quân hay tin liền đi ra nghênh đón, Lý Ý Lan miễn hết mọi nghi lễ phiền phức, trực tiếp đi đến phòng thuế dịch.
Chủ bạc quản lý phòng là một văn sĩ trung niên, không biết có phải vì ảnh hưởng tác phong mạnh mẽ của quân đội hay không mà làm việc vô cùng nhanh nhẹn, chưa tới một canh giờ đã liệt kê được toàn bộ gánh hát ra vào cổng thành trong vòng hai tháng nay, đồng thời sao chép ra một phần để tiện cho đề hình đại nhân mang đi.
Lệ Trung tướng quân thắc mắc: “Sao đại nhân đột nhiên lại điều tra những gánh hát này?”
Lý Ý Lan nói cho hắn về phỏng đoán điều khiển rối của mình, rồi căn dặn hắn chuẩn bị trước, chọn ra vài người có thể dùng được để ngừa nha môn hỏi mượn người từ tuần phòng doanh, giao phó xong xuôi, bọn họ bèn trở về nha môn.
Giang Thu Bình và Trương Triều chậm hơn một chút, một canh giờ sau mới trở về, hai bên chạm mặt, ngồi xuống bắt đầu đối chiếu những gánh hát ra vào và ở lại.
Rất nhiều chuyện nói thì dễ mà làm thì khó, phải làm sao để điều tra những gánh hát này cũng là một vấn đề.
Giang Thu Bình trầm ngâm: “Cho dù nghi phạm thật sự lẩn trong một gánh hát nào đó trong danh sách này, thì từ kế hoạch chặt chẽ của bọn chúng, có thể thấy chúng nhất định đã mưu tính tỉ mẩn nên làm sao để che dấu tai mắt người khác, làm sao để tránh bị nghi ngờ rồi, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng rằng dù hỏi cung cẩn thận nhưng vẫn không thu hoạch được gì.”
Lý Ý Lan tán đồng: “Đúng vậy, tuy nhiên kẻ khôn nghĩ ngàn việc, ắt có một việc sai, đây là chuyện chẳng ai nói chắc được, phải điều tra đã rồi hẵng nói.”
Dứt lời, hắn vẫy tay gọi một nha sai tiến vào, phân phó đội tuần tra mau chóng tìm ra nơi ở của những gánh hát kia, sau đó mời người về tra hỏi. Bộ đầu vừa mới đi, Tạ quận trưởng đã đạp trên chiều tà bù vào khoảng trống này.
Từ sau khi làm quan, ông ta ít khi vận động, đi mấy bước thôi đã túa mồ hôi, thở hồng hộc tiến vào, lập tức dâng danh sách trong tay cho Lý Ý Lan, cung kính thưa: “Đại nhân, tên và địa chỉ của các xưởng gỗ lớn nhỏ trong thành đều có ở đây ạ.”
Lý Ý Lan nhận lấy, trước tiên bảo Ký Thanh rót cho ông ta chén trà, tiếp đó mới nhìn lên giấy, khách sáo bảo ông ta vất vả rồi.
Tạ Tài uống một hớp, thở ra hơi, đang chuẩn bị hắng giọng thì đã thấy đám người kia chẳng ai chú ý đến mình, tất cả đều xúm lại trước mặt Lý Ý Lan để xem tờ danh sách kia, Tạ Tài ngơ ngác, lòng bỗng dâng lên một cảm giác hâm mộ.
Loại thái độ làm việc công minh, giành giật từng giây này, đã rất nhiều năm rồi Tạ Tài chưa từng thấy.
Hồi ấy ông ta cũng xuất thân khoa cử đường hoàng, trong lòng cũng từng có mấy phần chí khí hiên ngang, muốn vì nước tạo xã tắc, vì dân mưu hạnh phúc, nhưng đến bây giờ, cuộc đời ông ta cũng chỉ đến thế mà thôi, tầm thường xoàng xĩnh, được chăng hay chớ.
Những người này, ông ta phiền muộn nghĩ, có lẽ là vì vẫn đang còn trẻ.
Lý Ý Lan trẻ tuổi nhìn sơ qua một lượt, lúc mới nhìn cũng chẳng để ý tới địa chỉ số mười phố Lai Xuân nằm lẫn trong danh sách chi chít dài ngoằng này.
Sau bữa tối, bọn họ nắm chắc thời gian, đi ra ngoài ghé qua mấy xưởng gỗ ở gần.
Để không quấy rầy người dân, bọn họ vẫn chia nhau hành động, Lý Ý Lan dẫn theo Ký Thanh, Giang Thu Bình dẫn theo hai người còn lại, tất cả đều không để lộ thân phận, chỉ kiếm cớ nói là muốn đặt một ít rối dây theo yêu cầu, hỏi chủ xưởng có làm được không, có thành phẩm xem trước không.
Hai vị chủ xưởng trước đều nói không có, Lý Ý Lan liền đi đến xưởng thứ ba.
Quy mô của nhà xưởng này không khác mấy hai xưởng trước, hai mặt Đông Tây trong viện dựng lều, bên trong chất đầy vật liệu gỗ và bán thành phẩm, ông chủ tính tình hào sảng cởi mở, sau khi nghe rõ mục đích của bọn họ thì tươi cười nói: “Nhìn công tử có vẻ không phải người trong giang hồ, sao lại muốn mua thứ đồ này?”
Lý Ý Lan trố mắt, nói dối như thật: “Ta yêu mến một giai nhân, nàng ấy là một vị kỳ nữ, rất thích những món đồ tinh xảo khéo léo, ta làm thế cũng vì muốn khiến nàng vui. Ông chủ hỏi như vậy là có thể làm được đúng không?”
Ký Thanh ở đằng sau nhìn hắn với ánh mắt phức tạp, trước khi đến Nhiêu Lâm, bọn họ rúc trong nhà từ sáng đến tối, giai nhân từ xó nào ra!
Ông chủ lại tin thật, khoát tay hồ hởi bảo: “Thì ra là thế, có điều rất tiếc, tiểu nhân không có bản lĩnh này.”
Lý Ý Lan không nhụt chí, vẫn tiếp tục khách sáo: “Vậy ngài có biết về rối dây không? Liệu có thể kể cho ta nghe một chút để ta về khoe khoang cũng được.”
“Xin lỗi, ta cũng không biết, chỉ từng xem mấy buổi xiếc rối từ xa thôi.”
Lý Ý Lan làm bộ tiếc nuối: “Ta đã ghé qua mấy xưởng rồi, chỉ chỗ ngài mới hỏi được ‘món đồ kia’, ta còn tưởng là sẽ dễ dàng có được giai nhân chứ.”
Ông chủ thấy hắn hi vọng rồi lại thất vọng, bèn nói: “Không phải ta không muốn nhận đơn hàng này, mà là ta thật sự không biết. Sao người nào người nấy đều như vậy nhỉ, mang món đồ phức tạp thế này đến xưởng chúng ta chẳng phải là làm khó người khác sao?”
Mắt Lý Ý Lan lóe lên tinh quang, nhủ thầm người nào người nấy ở đâu ra? Lúc ra khỏi xưởng thì chòm Bắc Đẩu đã treo cao cao trên trời, Lý Ý Lan còn muốn đi tiếp nhưng Ký Thanh lo cho sức khỏe hắn nên nhất quyết kéo hắn về nha môn.
Kỳ thực mấy ngày qua, mặc dù cực kỳ bận rộn, nhưng số lần Lý Ý Lan ho ít hơn lúc ở quê nhà Lê Xương, tinh thần cũng phơi phới, nhưng mà mắt Ký Thanh cứ máy lia lịa, trong đêm tối Nhiêu Lâm luôn xen lẫn sự mập mờ mà cậu không nói rõ được, khiến màn đêm này có vẻ tràn ngập nguy hiểm.
Nhóm Giang Thu Bình vẫn chưa trở lại, Ký Thanh vui vẻ suy tính, muốn trở về trước mấy người kia để giục Lý Ý Lan đi nằm, nhưng đáng tiếc trời không chiều lòng người, cậu vừa mới bưng nước rửa mặt đến thì trong viện đang vang lên tiếng phành phạch, tiếp đốó một con bồ câu đưa thư oai vệ từ từ đậu xuống chiếc lồng nhỏ treo trên xà ngang.
Lý Ý Lan cũng nghe thấy tiếng động này, cái bóng từ cửa ló đầu ra, Ký Thanh trừng mắt nhìn con chim, chạy vào phòng đặt chậu xuống rồi chạy đi lấy thư trên đùi con súc sinh kia.
Đúng lúc ấy, ngoài cổng vòm truyền đến tiếng người, nghe là biết liền đám Giang Thu Bình trở lại, Ký Thanh nhún vai nhủ thầm giờ thì hay rồi, phí hết công sức.
Đêm hôm khuya khoắt, năm người chen chúc trong phòng Lý Ý Lan, Trường Triều thân là thông truyền nên rất nhạy bén với đồ vật truyền tin, hắn cách cánh cửa nhìn về phía lồng bồ câu trong viện, hỏi: “Bồ câu đưa thư từ đâu tới vậy?”
Lý Ý Lan mở giấy ra, bên trên viết mấy chữ nhỏ lít nhít, hắn vừa xem vừa bảo: “Gửi từ Phù Giang, tin tức có liên quan đến ‘niệm tử thạch’.”
Giang Thu Bình không khỏi liếc Ký Thanh một cái, lòng tràn đầy nghi hoặc đối với thân phận của thiếu niên này, bồ câu đưa thư không phải thứ nhà bình thường có thể sở hữu, hơn nữa tin gửi đến cũng quá nhanh.
Đương nhiên, càng nhanh thì y càng mừng.
Ký Thanh hồn nhiên không biết Giang tiên sinh đang hiếu kỳ về mình, cậu ngả ngớn nằm nhoài trên ghế, lông mày nhíu chặt thành hình chữ bát, ủ ê thở dài thườn thượt, bắt đầu oán giận: “Gì vậy chứ, cha ta rốt cuộc có điều tra nghiêm túc không thế, lại còn nói trên tảng đá chết tiệt kia chẳng có gì cả?”
Lý Ý Lan không để ý cậu ta, xem xong tờ giấy kia thì đưa ra, Giang Thu Bình cách gần hắn thứ nhì nhận lấy, để nghiêng sang bên cạnh cho Trương Triều tiện xem chung với mình. Hai người cùng rũ mắt nhìn, thấy rõ ràng nội dung trên giấy.
[Niệm tử thạch không có chỗ nào khác thường, không lỗ, không hốc, không cơ quan, xung quanh cũng không có dấu vết khả nghi.]
Nếu tin tức này đáng tin, vậy thì chứng tỏ suy đoán của bọn họ về Phù Giang đều đã lầm, vụ án vẫn lờ mờ chẳng rõ đầu đuôi, bọn họ chưa từng chân chính chạm tới gần được.
Giang Thu Bình tự phụ thông minh, không tránh khỏi chịu chút đả kích, y thầm thở dài, vừa chuyển tờ giấy cho Ngô Kim đang ngó dáo dác, vừa vực dậy tinh thần, nói: “Đêm nay ra ngoài có chút thu hoạch nhỏ, chúng ta tìm được một kẻ có vẻ hơi khả nghi, tên là Nghiêm Ngũ, đang đi khắp nơi tìm người làm một vật tạo hình hiếm thấy.”
Ký Thanh ngắt lời: “Khéo thật, chúng ta cũng dò la được người này.”
Trương Triều lạnh lùng nói: “Kẻ này quả nhiên có vấn đề.”
Lý Ý Lan suy nghĩ một chút: “Đừng kết luận sớm như vậy. Bên phía gánh hát không có đầu mối gì, ngày mai chúng ta đến xưởng gỗ điều tra xem Nghiêm Ngũ muốn đặt làm thứ gì, sau đó hẵng đi gặp hắn, bôn ba cả ngày cũng mệt rồi, hôm nay đến đây thôi, trở về nghỉ ngơi đi.”
Sau khi ba người rời đi, lúc đóng cửa Ký Thanh nhìn thoáng qua con chim bồ câu kia, nói như nhớ ra gì đó: “Lục ca, chắc sáng ngày mốt là thư của đại tẩu huynh cũng đến đấy, huynh nghĩ tỷ ấy có mang đến tin gì tốt không?”
Lý Ý Lan chui vào trong chăn, vừa định nói “Hy vọng là có” thì miệng bỗng trào lên một thứ mùi quen thuộc —— Mùi máu tanh.
Hắn không để lộ ra, cố giữ vẻ mặt như thường, đáp cho hết câu rồi bảo Ký Thanh đi nghỉ, chảy máu chân răng, chắc là thượng hỏa rồi, nhưng sau khi nến tắt một lúc lâu, Lý Ý Lan vẫn chẳng thấy buồn ngủ.
Sáng sớm hôm sau, bọn họ tập hợp ở sảnh ăn để dùng bữa sáng, sau đó chia nhau ra ngoài giống như hôm qua, chỉ có điều Ngô Kim không đi cùng Giang Thu Bình và Trương Triều nữa, nhiệm vụ của hắn biến thành mau chóng tìm ra Nghiêm Ngũ rồi bí mật theo dõi kẻ này.
Lý Ý Lan dẫn theo Ký Thanh, dùng nguyên ngày để ghé qua các xưởng gỗ ở thành Đông, có hai xưởng biết làm rối dây, nhưng chất lượng thô sơ, chỉ điều khiển cử động được mấy cái, động tác phức tạp hơn thì không làm được.
Sau khi biết được tạo hình của tứ hỉ nhân, hành tung của Nghiêm Ngũ rõ ràng hơn được một chút, tứ hỉ nhân mà người này đi hỏi thăm khắp nơi cũng kỳ diệu như rối dây mà bọn họ muốn tìm, bất kể là trùng hợp hay hiểu lầm, Lý Ý lan đều cảm thấy người này đáng để gặp một lần.
Ngày đi đêm đến, trời sẩm tối tự bao giờ, hai người vừa rời khỏi một xưởng gỗ, mùi hương thơm nức trong ngõ phả vào mặt, Ký Thanh ngáp một cái, vừa mệt vừa đói: “Công tử, nên ăn cơm tối thôi, về ăn đã rồi đi tiếp.”
Lý Ý Lan đang xem danh sách xưởng gỗ, vốn định tán thành ý kiến của cậu, nhưng ánh mắt bỗng nhìn đến “Phố Lai Xuân”, bèn đổi chủ ý: “Đến Hà Đồn cư đi, chủ nhân của nó sắp quay về rồi.”
…
Mùng tám tháng mười hai, giờ Tỵ khắc một, số mười phố Lai Xuân.
Đêm qua trời đổ mưa to, sấm chớp đùng đùng, đường xá lầy lội, cho nên khi Tri Tân đi tới trong thành thì giày La Hán dính toàn bùn đất.
(Giày La Hán là giày các vị sư hay đi đó.)
Người thợ mộc mà Nghiêm Ngũ nhắc tới khiến y rất lưu ý, cho nên sớm hôm nay y liền rời Chiêu Đàn tự, băng qua phố lớn trong thành, đi tới con hẻm nhỏ này.
Đã qua đầu thất mà cờ trắng chiêu linh vẫn treo ở trước cửa, chứng tỏ không phải người trong nhà ra ngoài, mà là căn bản không có người.
(Đầu thất là bảy ngày kể từ ngày chết, người ta tin rằng linh hồn của người đã khuất sẽ trở về nhà trong những ngày “đầu thất” này.)
Tri Tân gõ cửa ba lần, đều không có ai trả lời, lát sau một người hàng xóm đi ngang qua nói cho y biết, quả nhiên là trường hợp thứ hai, người thợ mộc quá cố này sống một mình. Y khéo léo nghe ngóng được nguyên nhân cái chết, được biết thợ mộc này là một con sâu rượu, thực sự uống say quá mà chết.
Người tuy đã mất nhưng trong nhà có thể còn sót lại manh mối, Tri Tân hỏi thăm hàng xóm về người đã thu xếp tang lễ cho thợ mộc này, sau đó đi đến đầu thành khác, hỏi xin tư cách đi vào nhà.
Trong lúc đi đường thì hai canh giờ đa lặng lẽ trôi qua, Tri Tân dùng chìa khóa mượn được để mở cửa gỗ, đẩy ra thấy trong viện hoang vu hẻo lánh, mạng nhện giăng trắng góc tường, vật liệu và công cụ vốn chất đống ở đó cũng hầu như không còn gì, phàm là đồ có chút giá trị đều đã bị bán để lấy tiền làm tang lễ.
Trong nhà cũng chẳng khá khẩm hơn, chỉ còn ít đồ đạc tàn tạ và chậu vỡ bát sứt, toát lên một luồng tử khí thê lương. Tri Tân loanh quanh hai vòng trong viện, chẳng tìm được cái gì, chỉ thấy ở góc tường có một cục đá dính đầy bùn, nền đất khô cằn đến độ chẳng mọc nổi một cây cỏ.
Phật nói phải giữ tâm bình lặng, y cũng đã quen thất vọng rồi, nếu không có manh mối thì y nên rời đi thôi, nhưng Tri Vân vẫn khó nén nổi sự không cam lòng, y mất một lát để dẹp tan loại chấp niệm này, sau đó ngồi trên mặt đất, bắt đầu mặc niệm Từ Bi Đạo Trường Sám Pháp cho người đã khuất.
Bóng đêm đậm dần, Tri Tân đưa lưng về phía nóc nhà, chẳng hề phát hiện bóng người màu đen lặng lẽ leo lên mái ngói.
Ngay lúc ấy, con mèo hoa nhà ai bỗng nhảy lên đầu tường nhà người thợ mộc, trong màn đêm, con mắt xanh biếc nhận ra động tĩnh trên mái ngói, nó hướng về phía nóc nhà kêu một tiếng chói tai, sau đó quay đầu chạy biến.
Tri Tân niệm kinh bị cắt ngang, y mở mắt ra nhìn, chỉ thấy trong bóng đêm vô tận đột nhiên lóe lên ánh sáng lạnh lẽo, bổ về phía y nhanh như chớp.
Trong nhà của một thợ mộc nhỏ bé, ẩn giấu hai tên hung đồ tu vi cao siêu…..
Mũi đao phản chiếu trong mắt càng lúc càng lớn, tim Tri Tâm đập như trống bỏi, còn không kịp suy nghĩ đầu đuôi nguyên do, võ công của y chỉ bình thường, lại đang ngồi tư thế xếp bằng không tiện hành động, hơn nữa không hề phòng bị, muốn tránh cũng chẳng tránh nổi.
Trong lòng biết trốn không thoát, Tri Tân dứt khoát nhắm hai mắt lại.
Người sống ắt có lúc chết, nếu như đây là kết thúc đã định sẵn cho y, vậy thì lưu lại đây là được rồi.
Nhưng hai mắt nhắm lại, lỗ tai vẫn có thể nghe thấy, tiếng xé gió đã gần sát bên tai, sát khí sắc bén như thể hóa hình, mang theo hơi lạnh khiến người ta rét run.
Tri Tân bình tĩnh thì thầm: “A Di Đà Phật.”
Giây tiếp theo, kim thiết giao kích đánh “Keng” một tiếng, gáy Tri Tân bỗng căng chặt, bỗng dưng bị kéo ra sau, tiếp đó chân trái y lạnh tanh, cơn đau dữ dội bùng nổ.
“Bằng hữu, chuyện giang hồ không dễ dây vào đâu.” Một giọng nam lạnh lùng vang lên từ nơi cao trong viện.
Tri Tân mở mắt ra, phát hiện trước mặt mình không biết từ bao giờ đã xuất hiện một bóng người che chắn, người này đưa lưng về phía y, chiếc nón dày nặng trượt xuống khỏi vai, mang theo mùi thuốc thoang thoảng, hắn không lên tiếng, nhưng Tri Tân đã biết hắn là ai.
Kẻ áo đen lên tiếng đe dọa nhưng bị ngó lơ, liền hừ lạnh một tiếng, đang định nhảy xuống khỏi nóc nhà, nhưng còn chưa kịp nhảy thì đôi mắt duy nhất lộ ra trên mặt đột nhiên trở nên phức tạp, giọng nói dịu đi mấy phần, gã đổi công thành thủ, hỏi một cách đề phòng: “Xin thỉnh giáo các hạ, Giải Nhung thương Hồ Hành Cửu là gì của ngươi?”
Bách chiến chung bất hối, ẩm chí giải nhung y.
Thần thương Giải Nhung, một thể làm hai, có thể làm thương, làm côn, làm chủy thủ, vừa công vừa thủ, đứng thứ sáu trên bảng xếp hạng binh khí giang hồ.
“Là chính ta.”
✿Tác giả có lời muốn nói:
Lý Ý Lan: Cho ta làm màu chút đi mà, đừng than thở, cũng đừng đánh đầu, cám ơn.
Danh sách chương