Dư thấy nhiều độc giả than phiền rằng họ Tư Mã quá đông, khó phân biệt. Lại có người mơ hồ về các chức quan thời bấy giờ. Nay mở một chương riêng, lược thuật đôi điều để sáng tỏ.
Dưới đây, ta theo từng châu, lấy thời điểm cuối năm Thái An thứ hai (303) đời Tấn Huệ Đế làm mốc.
(1) Ký Châu: Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh
Năm Nguyên Khang thứ chín (299), tháng Giêng, Ký Châu Thứ Sử, Hà Gian Vương Tư Mã Ngung chuyển trấn Quan Trung. Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh đảm nhiệm Bình Bắc Tướng Quân, Đô Đốc Nghiệp Thành thủ sự, chẳng bao lâu được phong Trấn Bắc Đại Tướng Quân.
Thứ Sử là Dương Hoài.
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Tư Mã Dĩnh giữ nguyên chức, Thứ Sử đổi thành Lý Nghị.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), Tư Mã Dĩnh khởi binh thảo nghịch, được bái Đại Tướng Quân, trấn giữ như cũ. Thứ Sử vẫn là Lý Nghị.
Năm Thái An nguyên niên (302), không có biến động, gió êm sóng lặng.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Dĩnh giữ nguyên chức, Thứ Sử đổi thành Hậu Tướng Quân Ôn Tiện.
Tính đến nay, Tư Mã Dĩnh đã trấn Ký Châu được năm năm.
(2) U Châu: Vương Tuấn
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Lưu Hoằng nhập triều làm Thượng Thư. Ninh Thạc Tướng Quân, Đô Đốc U Châu chư quân sự Vương Tuấn nhậm chức.
Thứ Sử không rõ, có thể do Vương Tuấn kiêm nhiệm.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), không biến động. Tháng Tư, Vương Tuấn thăng An Bắc Tướng Quân.
Năm Thái An nguyên niên (302), Vương Tuấn vẫn là Đô Đốc.
Thứ Sử là Thạch Trạm hoặc Thạch Kham, các sử liệu ghi chép khác nhau. Dư nghiêng về Thạch Kham. Các vị thấy đó, sử sách thời này lỗi sai ngập tràn, mâu thuẫn chồng chất, quả thật đau đầu! Năm Thái An thứ hai (303), Vương Tuấn vẫn là Đô Đốc. Thạch Kham “hồi nhậm Hữu Tư Mã của Đại Tướng Quân (Tư Mã Dĩnh)”, Hòa Diễn tiếp nhận Thứ Sử.
Tính đến nay, Vương Tuấn đã trấn U Châu bốn năm.
(3) Ung Châu: Hà Gian Vương Tư Mã Ngung
Năm Nguyên Khang thứ chín (299), tháng Giêng, Tư Mã Ngung rời Nghiệp Thành, trấn Trường An.
Thứ Sử không rõ, có thể do Tư Mã Ngung kiêm nhiệm.
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), không biến động.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), không biến động. Tháng Tư, Tư Mã Ngung được phong Thái Úy.
Năm Thái An nguyên niên (302), không biến động.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Ngung giữ nguyên chức. Thứ Sử là Lưu Thẩm.
Tính đến nay, Tư Mã Ngung đã trấn Ung Châu năm năm.
(4) Dự Châu: Tề Vương Tư Mã Quýnh/Phạm Dương Vương Tư Mã Hổ
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Vương Tuấn “hồi nhậm Thanh Châu Thứ Sử”, sau chuyển sang U Châu. Tháng Tám, Tư Mã Quýnh được phong Trấn Đông Tướng Quân, Đô Đốc Dự Châu chư quân sự, trấn Hứa Xương.
Thứ Sử là Hà Huấn.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), tháng Ba, Tư Mã Quýnh khởi binh thảo nghịch. Tư Mã Hổ nhậm An Nam Tướng Quân, Đô Đốc Dự Châu chư quân sự, trấn Hứa Xương.
Thứ Sử Hà Huấn theo Tư Mã Quýnh, “nhập triều làm Lĩnh Quân”.
Sau khi Hà Huấn đi, Thứ Sử không rõ, có thể do Tư Mã Hổ kiêm nhiệm.
Năm Thái An nguyên niên (302), không biến động.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Hổ thăng Chinh Nam Tướng Quân.
Thứ Sử năm này là Uy Viễn Tướng Quân Lưu Kiều.
Tính đến nay, Tư Mã Hổ trấn Dự Châu gần ba năm.
(5) Kinh Châu: Cao Mật Vương Tư Mã Lược/Tân Dã Vương Tư Mã Hâm/Lưu Hoằng
Năm Nguyên Khang thứ chín (299), An Nam Tướng Quân, Đô Đốc Miến Nam chư quân sự Tư Mã Lược nhậm chức.
Thứ Sử là Lưu Bưu.
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Tư Mã Lược chuyển trấn Thanh Châu. Bình Nam Tướng Quân, Đô Đốc Kinh Châu chư quân sự Tôn Túc nhậm chức.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), tháng Giêng, Tôn Túc “bái Thừa Tướng” nhưng chưa kịp nhậm chức đã bị giết, diệt tam tộc.
Cũng trong tháng Giêng, Mạnh Quan nhậm Bình Nam Tướng Quân, Giám Miến Bắc chư quân sự, sau bị giết, diệt tam tộc.
Lúc này, hai Đô Đốc của Kinh Châu (Kinh Châu Đô Đốc và Uyển Thành Đô Đốc) đều vì tội làm đảng phái Tư Mã Luân mà bị giết.
Tháng Giêng, Tư Mã Hâm nhậm Nam Trung Lang Tướng, tháng Hai thăng Trấn Nam Đại Tướng Quân, Đô Đốc Kinh Châu chư quân sự.
Dương Y nhậm Bình Nam Tướng Quân, Đô Đốc Giang Bắc chư quân sự (trấn Uyển Thành).
Thứ Sử Kinh Châu năm này là Tống Đại (có sử liệu ghi là Tông Đại, e là chép nhầm, thật đáng than!).
Năm Thái An nguyên niên (302), Tư Mã Hâm, Dương Y, Tống Đại giữ nguyên chức.
Năm Thái An thứ hai (303), tháng Năm, do phần lớn thế binh Kinh Châu bị điều đi Thục Trung bình loạn, Tư Mã Hâm và Dương Y đều bị thủ lĩnh khởi nghĩa Trương Xương giết chết.
Tháng Năm, Tống Đại qua đời, có lẽ thọ chung, nhưng không rõ mất tại Kinh Châu hay Thục Trung, vì ông đã đi Thục bình loạn.
Tháng Sáu, Lưu Hoằng nhậm Chinh Nam Tướng Quân, Đô Đốc Kinh Châu chư quân sự, kiêm Kinh Châu Thứ Sử.
Bành Thành Vương Tư Mã Thích nhậm Nam Trung Lang Tướng, trấn Uyển Thành.
Kinh Châu kẻ đến người đi, không ai trấn lâu dài.
(6) Dương Châu: Kiều Vương Tư Mã Tùy/Lưu Chuẩn
Trước năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), Phù Dương Vương Tư Mã Doãn trấn Dương Châu Đô Đốc đã lâu. Năm này, Kiều Vương Tư Mã Tùy tiếp quản, nhậm An Đông Tướng Quân, Đô Đốc Dương Châu chư quân sự.
Tháng Giêng năm này, Sĩ Long bái Dương Châu Thứ Sử, nhưng vì là đảng phái Triệu Vương Tư Mã Luân, bị tấn công và giết, phụ tử đều chết.
Trần Huy tiếp nhận Thứ Sử.
Năm Thái An nguyên niên (302), tháng Giêng, Tư Mã Tùy qua đời. Lưu Chuẩn nhậm Chinh Đông Tướng Quân, Đô Đốc Dương Châu chư quân sự.
Năm Thái An thứ hai (303), Lưu Chuẩn và Trần Huy giữ nguyên chức.
Tính đến nay, Lưu Chuẩn đã làm Đô Đốc hai năm.
(7) Từ Châu: Đông Bình Vương Tư Mã Mạo
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), tháng Tám, Tư Mã Mạo nhậm Bình Đông Tướng Quân, Đô Đốc Từ Châu chư quân sự, trấn Hạ Bì.
Thứ Sử không rõ, có thể do Tư Mã Mạo kiêm nhiệm.
Năm Thái An nguyên niên (302), Đô Đốc là Tư Mã Mạo, Thứ Sử là Quán Quân Tướng Quân Chu Phức.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Mạo thăng Vệ Tướng Quân, Thứ Sử vẫn là Chu Phức.
Bảy châu lớn, tám Đô Đốc đã lược thuật xong, mệt mỏi lắm rồi! Phần tiếp theo (phần hai) sẽ viết sau.
Than một câu, sử sách thời này thật khó nói! Không chỉ thiếu sót mà mâu thuẫn, sai lầm chồng chất. Có châu quận còn chẳng ghi đủ tên huyện, các vị tin nổi không? Ha ha, thật đáng buồn! So với chiến loạn thời Hậu Đường, Ngũ Đại Thập Quốc, sử liệu còn lưu giữ nhiều hơn thời Nam Bắc triều, thật bất đắc dĩ!
Dưới đây, ta theo từng châu, lấy thời điểm cuối năm Thái An thứ hai (303) đời Tấn Huệ Đế làm mốc.
(1) Ký Châu: Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh
Năm Nguyên Khang thứ chín (299), tháng Giêng, Ký Châu Thứ Sử, Hà Gian Vương Tư Mã Ngung chuyển trấn Quan Trung. Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh đảm nhiệm Bình Bắc Tướng Quân, Đô Đốc Nghiệp Thành thủ sự, chẳng bao lâu được phong Trấn Bắc Đại Tướng Quân.
Thứ Sử là Dương Hoài.
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Tư Mã Dĩnh giữ nguyên chức, Thứ Sử đổi thành Lý Nghị.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), Tư Mã Dĩnh khởi binh thảo nghịch, được bái Đại Tướng Quân, trấn giữ như cũ. Thứ Sử vẫn là Lý Nghị.
Năm Thái An nguyên niên (302), không có biến động, gió êm sóng lặng.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Dĩnh giữ nguyên chức, Thứ Sử đổi thành Hậu Tướng Quân Ôn Tiện.
Tính đến nay, Tư Mã Dĩnh đã trấn Ký Châu được năm năm.
(2) U Châu: Vương Tuấn
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Lưu Hoằng nhập triều làm Thượng Thư. Ninh Thạc Tướng Quân, Đô Đốc U Châu chư quân sự Vương Tuấn nhậm chức.
Thứ Sử không rõ, có thể do Vương Tuấn kiêm nhiệm.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), không biến động. Tháng Tư, Vương Tuấn thăng An Bắc Tướng Quân.
Năm Thái An nguyên niên (302), Vương Tuấn vẫn là Đô Đốc.
Thứ Sử là Thạch Trạm hoặc Thạch Kham, các sử liệu ghi chép khác nhau. Dư nghiêng về Thạch Kham. Các vị thấy đó, sử sách thời này lỗi sai ngập tràn, mâu thuẫn chồng chất, quả thật đau đầu! Năm Thái An thứ hai (303), Vương Tuấn vẫn là Đô Đốc. Thạch Kham “hồi nhậm Hữu Tư Mã của Đại Tướng Quân (Tư Mã Dĩnh)”, Hòa Diễn tiếp nhận Thứ Sử.
Tính đến nay, Vương Tuấn đã trấn U Châu bốn năm.
(3) Ung Châu: Hà Gian Vương Tư Mã Ngung
Năm Nguyên Khang thứ chín (299), tháng Giêng, Tư Mã Ngung rời Nghiệp Thành, trấn Trường An.
Thứ Sử không rõ, có thể do Tư Mã Ngung kiêm nhiệm.
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), không biến động.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), không biến động. Tháng Tư, Tư Mã Ngung được phong Thái Úy.
Năm Thái An nguyên niên (302), không biến động.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Ngung giữ nguyên chức. Thứ Sử là Lưu Thẩm.
Tính đến nay, Tư Mã Ngung đã trấn Ung Châu năm năm.
(4) Dự Châu: Tề Vương Tư Mã Quýnh/Phạm Dương Vương Tư Mã Hổ
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Vương Tuấn “hồi nhậm Thanh Châu Thứ Sử”, sau chuyển sang U Châu. Tháng Tám, Tư Mã Quýnh được phong Trấn Đông Tướng Quân, Đô Đốc Dự Châu chư quân sự, trấn Hứa Xương.
Thứ Sử là Hà Huấn.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), tháng Ba, Tư Mã Quýnh khởi binh thảo nghịch. Tư Mã Hổ nhậm An Nam Tướng Quân, Đô Đốc Dự Châu chư quân sự, trấn Hứa Xương.
Thứ Sử Hà Huấn theo Tư Mã Quýnh, “nhập triều làm Lĩnh Quân”.
Sau khi Hà Huấn đi, Thứ Sử không rõ, có thể do Tư Mã Hổ kiêm nhiệm.
Năm Thái An nguyên niên (302), không biến động.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Hổ thăng Chinh Nam Tướng Quân.
Thứ Sử năm này là Uy Viễn Tướng Quân Lưu Kiều.
Tính đến nay, Tư Mã Hổ trấn Dự Châu gần ba năm.
(5) Kinh Châu: Cao Mật Vương Tư Mã Lược/Tân Dã Vương Tư Mã Hâm/Lưu Hoằng
Năm Nguyên Khang thứ chín (299), An Nam Tướng Quân, Đô Đốc Miến Nam chư quân sự Tư Mã Lược nhậm chức.
Thứ Sử là Lưu Bưu.
Năm Vĩnh Khang nguyên niên (300), Tư Mã Lược chuyển trấn Thanh Châu. Bình Nam Tướng Quân, Đô Đốc Kinh Châu chư quân sự Tôn Túc nhậm chức.
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), tháng Giêng, Tôn Túc “bái Thừa Tướng” nhưng chưa kịp nhậm chức đã bị giết, diệt tam tộc.
Cũng trong tháng Giêng, Mạnh Quan nhậm Bình Nam Tướng Quân, Giám Miến Bắc chư quân sự, sau bị giết, diệt tam tộc.
Lúc này, hai Đô Đốc của Kinh Châu (Kinh Châu Đô Đốc và Uyển Thành Đô Đốc) đều vì tội làm đảng phái Tư Mã Luân mà bị giết.
Tháng Giêng, Tư Mã Hâm nhậm Nam Trung Lang Tướng, tháng Hai thăng Trấn Nam Đại Tướng Quân, Đô Đốc Kinh Châu chư quân sự.
Dương Y nhậm Bình Nam Tướng Quân, Đô Đốc Giang Bắc chư quân sự (trấn Uyển Thành).
Thứ Sử Kinh Châu năm này là Tống Đại (có sử liệu ghi là Tông Đại, e là chép nhầm, thật đáng than!).
Năm Thái An nguyên niên (302), Tư Mã Hâm, Dương Y, Tống Đại giữ nguyên chức.
Năm Thái An thứ hai (303), tháng Năm, do phần lớn thế binh Kinh Châu bị điều đi Thục Trung bình loạn, Tư Mã Hâm và Dương Y đều bị thủ lĩnh khởi nghĩa Trương Xương giết chết.
Tháng Năm, Tống Đại qua đời, có lẽ thọ chung, nhưng không rõ mất tại Kinh Châu hay Thục Trung, vì ông đã đi Thục bình loạn.
Tháng Sáu, Lưu Hoằng nhậm Chinh Nam Tướng Quân, Đô Đốc Kinh Châu chư quân sự, kiêm Kinh Châu Thứ Sử.
Bành Thành Vương Tư Mã Thích nhậm Nam Trung Lang Tướng, trấn Uyển Thành.
Kinh Châu kẻ đến người đi, không ai trấn lâu dài.
(6) Dương Châu: Kiều Vương Tư Mã Tùy/Lưu Chuẩn
Trước năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), Phù Dương Vương Tư Mã Doãn trấn Dương Châu Đô Đốc đã lâu. Năm này, Kiều Vương Tư Mã Tùy tiếp quản, nhậm An Đông Tướng Quân, Đô Đốc Dương Châu chư quân sự.
Tháng Giêng năm này, Sĩ Long bái Dương Châu Thứ Sử, nhưng vì là đảng phái Triệu Vương Tư Mã Luân, bị tấn công và giết, phụ tử đều chết.
Trần Huy tiếp nhận Thứ Sử.
Năm Thái An nguyên niên (302), tháng Giêng, Tư Mã Tùy qua đời. Lưu Chuẩn nhậm Chinh Đông Tướng Quân, Đô Đốc Dương Châu chư quân sự.
Năm Thái An thứ hai (303), Lưu Chuẩn và Trần Huy giữ nguyên chức.
Tính đến nay, Lưu Chuẩn đã làm Đô Đốc hai năm.
(7) Từ Châu: Đông Bình Vương Tư Mã Mạo
Năm Vĩnh Ninh nguyên niên (301), tháng Tám, Tư Mã Mạo nhậm Bình Đông Tướng Quân, Đô Đốc Từ Châu chư quân sự, trấn Hạ Bì.
Thứ Sử không rõ, có thể do Tư Mã Mạo kiêm nhiệm.
Năm Thái An nguyên niên (302), Đô Đốc là Tư Mã Mạo, Thứ Sử là Quán Quân Tướng Quân Chu Phức.
Năm Thái An thứ hai (303), Tư Mã Mạo thăng Vệ Tướng Quân, Thứ Sử vẫn là Chu Phức.
Bảy châu lớn, tám Đô Đốc đã lược thuật xong, mệt mỏi lắm rồi! Phần tiếp theo (phần hai) sẽ viết sau.
Than một câu, sử sách thời này thật khó nói! Không chỉ thiếu sót mà mâu thuẫn, sai lầm chồng chất. Có châu quận còn chẳng ghi đủ tên huyện, các vị tin nổi không? Ha ha, thật đáng buồn! So với chiến loạn thời Hậu Đường, Ngũ Đại Thập Quốc, sử liệu còn lưu giữ nhiều hơn thời Nam Bắc triều, thật bất đắc dĩ!
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Truyện Hot Mới
Danh sách chương