Đầu hạ năm Long An thứ tám, chư quốc Tây Vực thật sự chống cự không nổi, túm tụm tàn binh, mở biên giới, liên danh dâng tấu thỉnh tội đầu hàng lên mẫu quốc.

Ở lối vào con đường tơ lụa, chư quốc Tây Vực lần thứ hai cùng đại biểu Đại Lương ngồi vào bàn, bị ép nghị hòa.

Với bại tướng, Cố Quân căn bản lười ra mặt, chỉ phái Thẩm Dịch toàn quyền đại diện.

Thẩm Dịch đến mang theo yêu cầu hà khắc của Đại Lương – trước tiên phải đòi một khoản vàng bạc khổng lồ, tiếp đó phải xây Sở trú binh Đại Lương ở Tây Vực các quốc, giám sát nước phụ thuộc, từ đây về sau, ngoại trừ Lâu Lan là minh hữu, các nước phụ thuộc còn lại đều không được có một món hỏa cơ cương giáp, kể cả khinh cừu, tiêu hủy toàn bộ, cuối cùng, Đại Lương yêu cầu, nước phụ thuộc cần tiến cống hơn bảy phần tử lưu kim khai thác mỗi năm cho Đại Lương.

Khoản này chính Thẩm Dịch đọc một lần cũng cảm thấy đau răng, quả thực là cạo xương ba phân, đại biểu chư quốc lập tức cũng kêu cha gọi mẹ um sùm.

Lần đầu đàm phán không thành, hôm sau Cố Quân liền dẫn ba trăm trọng giáp nửa đêm tập kích doanh tàn binh Tây Vực đã đầu hàng, trên trời dưới đất đỏ bừng, để thay họ hoàn thành nội dung chủ yếu của điều thứ hai trong hiệp ước, cũng công nhiên tuyên bố, hai điều khác không đồng ý không sao, y lập tức dẫn người đồ thành.

Việc đồ thành ảnh hưởng thiên hòa, bình thường chỉ có Bắc man mới làm như vậy, trong quân Đại Lương rất ít có thói quen này, nhưng người Tây Vực lo lắng Cố Quân căm hận mối thù vụ nổ, hoài nghi chuyện gì y cũng làm được, mới đầu còn gắng gượng, chờ tới khi Cố Quân ra lệnh đập mở cổng thành, đại biểu liên quân trên bàn đàm phán rốt cuộc hoảng sợ.

Sau nhiều lần cò kè mặc cả không kết quả, ba ngày sau, “Lâu Lan tân ước” được ký kết, dưới sự uy hiếp của Cố Quân trọng binh, các quốc gia lập tức thanh tiễu chiến bị trong nước bằng tốc độ nhanh nhất, sau đó lại không ngừng kêu khổ mà gom góp ra tử lưu kim khai thác trong một năm còn chưa kịp dùng.

Cuối tháng Năm, Cố Quân và Thẩm Dịch từ Tây Vực bí mật áp tải tử lưu kim về kinh.

Một trận mưa to gột sạch đầu đường cuối ngõ kinh thành, hoa hòe li ti rụng đầy phố.

Phong thanh việc cải cách lại trị bị mưa to làm giảm nhỏ, loạn cục mọi người nghĩ rằng sẽ đến như kỳ tích không hề xuất hiện.

Đầu tiên thế gia môn phiệt đều không ngu, cho dù bất mãn với việc Nhạn vương nghĩ cách moi bạc từ túi mình, trong lòng cũng hiểu, so với mình thì đám hàn lâm nghèo xuất thân khoa cử vét hết người chẳng được mấy lượng bạc đó mới là hận chính sách này nhất, không đáng làm chim đầu đàn thay người ta, cho nên thoạt tiên, nhóm người này trốn hết đi chuẩn bị xem trò cười.

Không ngờ việc này cũng thực tà môn, ngoại trừ mấy lão nho nghèo hồ đồ đứng ra nói vài câu “thể thống” với không “thể thống” vớ vẩn, trong triều ngay đến bọt nước cũng chưa bắn lên.

Trường Canh trước tiên dâng tấu lên Hoàng đế, trình suy nghĩ lâu dài hơn với phong hỏa phiếu cho Lý Phong, đầu đuôi viết rõ ràng, giấu giếm phóng đại có kỹ xảo, cuối cùng vẽ ra một cái bánh to – giả như theo thời gian, phong hỏa phiếu phổ biến từ trên xuống dưới, có thể thu hết vàng bạc dân gian thiên hạ về quốc khố, dân gian mua bán toàn bằng phiếu, định mức phiếu bao nhiêu thì do triều đình xem xét quyết định, sẽ không còn xuất hiện cục diện vàng bạc dân gian tích bụi, khi quốc gia nguy nan quốc khố không có tiền dùng.

Lý Phong lúc trước cảm thấy Nhạn vương có một số ý nghĩ quá ly kinh phản đạo, không ra thể thống gì, lúc này mới phát hiện, không phải tên này không ra thể thống gì, mà quả thực là muốn giẫm hai chữ “thể thống” dưới chân.

Ngày xưa có Thủy Hoàng đế thu binh khí thiên hạ để đúc tượng đồng, ngày nay liền xuất hiện một Nhạn thân vương hạn chế nhân tài thiên hạ.

Thế nhưng ý tưởng này thật sự quá mê người, Lý Phong sau khi hiểu qua về khái niệm “dùng mấy tờ giấy mua bán thay vàng bạc”, một mặt trong lòng mơ hồ bất an, một mặt lại thật sự không cách nào kháng cự sức hấp dẫn của nó, giữ bản tấu lại ba ngày. Sau nhiều lần cân nhắc, rốt cuộc hắn vẫn nghĩa vô phản cố ăn cái bánh này, ra lệnh cho Trường Canh bắt tay vào lo liệu, nhưng liên tục cảnh cáo, thủ đoạn không thể quá mạnh, đặc biệt là với những nhân tài lứa mới xuất thân hàn môn, phải “từ từ mà làm”.

Hoàng đế Lý Phong không biết là, từ lúc Nhạn vương dâng tấu yêu cầu sửa lại trị, người giàu nhất Giang Nam cùng cự cổ các nơi mười ba người vào kinh, mời khách trong tửu lâu nhỏ năm đó Lâm Uyên mộc bài chọn chủ.

Tửu lâu nhỏ vốn đổ nát, chẳng ai biết đến, mấy năm trước bị hào quang của Khởi Diên lâu che lấp, như đom đóm dưới ánh trăng, mắt không tốt căn bản tìm không ra, lần này lại vô cùng may mắn còn tồn tại trong kinh thành khắp chốn hoang tàn, đầu năm lại nghỉ ngơi một phen, chính thức mở cửa đón khách lần nữa. Trên tiểu lâu hai tầng ban đầu cất thêm hai tầng, gạch nát ngói vụn dọn dẹp rất sạch sẽ, thay tên “Vọng Nam lâu”, tự dưng gợi lên nỗi bi ai khi nửa giang sơn rơi vào tay giặc, cực kỳ hợp cảnh – ít ai biết, tửu lâu vốn ngắc ngoải này chính là sản nghiệp của Đỗ Vạn Toàn.

Khi song phương lần đầu hiệp đàm từng hết sức không thuận, người đọc sách tự giữ thanh quý, lại đều chìm nổi nhiều năm chốn quan trường, quả thật không muốn tiếp xúc với những kẻ toàn mùi tiền này, phần lớn là tới xã giao cho có thôi.

Ai ngờ tiếp xúc rồi mới biết Đỗ Vạn Toàn này không đơn giản.

Đỗ Vạn Toàn từng tự mình dong thuyền về Tây Dương, thấy qua cảnh đời chân chính, tính tình cách nói năng, suy nghĩ trong lòng đều một trời một vực với thương nhân bình thường, cái lưỡi không xương có thể nói người chết thành sống, lại thêm Giang Sung bình tĩnh hòa giải, nhanh chóng có rất nhiều người tâm tư dao động.

Và khi pháp lệnh cải cách lại trị âm thầm thấm vào các nơi, đám người Đỗ Vạn Toàn lại thuê một gian phòng lớn nhất Vọng Nam lâu, lần thứ hai mở tiệc chiêu đãi trọng thần trong triều lấy Giang Sung làm đầu gồm tám người.

Tất cả đều là ở trong triều không chỗ dựa dẫm, khoa cử làm quan, tay trắng dựng nghiệp.

Mật đàm lần này giằng co hơn bốn canh giờ, cho đến khi trăng treo đầu cành, thủ tọa Giang Sung mới nâng chén kết cuộc.

Giang Sung nghiêm nghị đứng dậy, nhìn xung quanh, không ít người ly qua chén lại đã ngà ngà say.

“Hôm nay cơm no rượu say, mọi người cũng đều mệt rồi, ta không làm mất hứng, cầm một chén, chúng ta uống nốt rồi giải tán.” Giang Sung nói, “Chỉ cần trận này chúng ta còn phải đánh tiếp, thúc đẩy phong hỏa phiếu là thế phải làm, chư công một lòng vì nước…”

Giang Sung nói đến đây tự dưng dừng lại, đều ở trong một nụ cười, im lặng uống một hơi cạn rượu trong chén.

Một lòng vì nước, cũng xin nghĩ cho đường ra của mình.

Cự cổ nhiều năm hoàn toàn không thể xen miệng vào thời cuộc triều chính, bức thiết hi vọng có người phát ngôn của mình, tương phùng đám văn quan thanh liêm không quyền không thế, lưỡng tụ thanh phong, chính thức kết minh.

Sau khi lần lượt tiễn hết văn quan thương nhân, Đỗ Vạn Toàn một mình về Vọng Nam lâu, đi thẳng tới phòng sát vách gian ban nãy, bên trong đó không một tôi tớ, đèn cũng chẳng đốt, chỉ có một ngọn đèn măng-sông tù mù treo trên đầu, trên bàn có hai lạng rượu vàng, một bát cháo trắng và một đĩa thức nhắm, cháo húp nửa bát, còn ba phần, thức nhắm chỉ động đũa qua, mà người cạnh bàn đã bỏ đũa.

Đỗ Vạn Toàn không còn sự khéo léo ban nãy, kính cẩn tiến lên chào: “Nhạn vương gia.”

Trường Canh khách khí gật đầu: “Đỗ công.”

Đỗ Vạn Toàn nhìn qua cháo loãng và thức ăn trên bàn, vội nói: “Vương gia thường ngày tiết kiệm, thật làm mọi người cảm phục, nhưng mà Vọng Nam lâu này là sản nghiệp của chính chúng ta, sao ngài không gọi vài món ngon miệng? Sắp vào hạ rồi, để ta bảo họ chuẩn bị ít thanh tâm dưỡng sinh…”

“Không cần, ta ăn món này là được rồi,” Trường Canh khoát tay, nói, “Việc hôm nay toàn bộ nhờ Đỗ công, làm phiền ngài rồi.”

Đỗ Vạn Toàn vội luôn miệng nói không dám, thấy y đứng dậy muốn đi, ân cần cầm chiếc ô bên cạnh lên: “Hậu viện đã chuẩn bị xe, mời Vương gia đi bên này.”

Ban đầu khi Liễu Nhiên hòa thượng triệu tập Lâm Uyên mộc bài, người không cam tâm không tình nguyện nhất chắc chắn là Đỗ Vạn Toàn – năm xưa hắn làm giàu quả thật dựa vào lực lượng dân gian của Lâm Uyên các không ít. Song trong việc gầy dựng gia nghiệp này, Đỗ Vạn Toàn không thể thừa nhận có bao nhiêu trợ lực của Lâm Uyên các, lúc này muốn hắn vì một người chưa bao giờ tiếp xúc mà dốc hết tâm huyết suốt đời, chẳng ai chịu làm vậy.

Nhưng sau hơn nửa năm tiếp xúc với Nhạn vương, trước mắt muốn đi theo làm tùy tùng cho Nhạn vương nhất lại cũng là Đỗ Vạn Toàn.

Đỗ tài thần nhiều năm qua vào nam ra bắc, kiến thức lịch duyệt đều cao hơn người ta, mơ hồ cảm thấy Trường Canh quả thật đang cứu quốc gia khỏi nguy nan, nhưng càng nhiều hơn là đang trải cái gì. Đỗ Vạn Toàn có cảm giác hưng phấn khó tả – con đường mưa gió bấp bênh của Đại Lương từ Vũ đế mà hưng, Nguyên Hòa đế mà thịnh cực chuyển suy, Long An đế mà cùng đồ mạt lộ – trước mắt quả thật đã đến một bước ngoặt thời đại mới.

Hắn lại chỉ dựa vào một tấm mộc bài mà lên được con thuyền lớn này.

Trường Canh vừa đi tới cửa, bỗng nhiên vô tình sờ hông mình, liền dừng bước.

Đỗ Vạn Toàn tinh mắt liếc thấy, vội hỏi: “Vương gia đang tìm cái gì thế?”

“Không có gì,” Trường Canh dừng một chút, tựa hồ hơi lơ đãng nói, “Hương dùng hết rồi.”

Mấy ngày nay y phải chú ý mọi mặt, an thần tán dùng quá nhanh, nhất thời vẫn chưa có thời gian phối, Trường Canh thở dài, cười nói với Đỗ Vạn Toàn: “Không sao, Đỗ công dừng bước, không cần tiễn – hãy chuyển cáo Phụng Hàm công, chuyện ông ấy vẫn mong mãi, sẽ có ngày được thực hiện.”

Tửu lượng y không tốt – nhưng có thân phận Thân vương ở đó, bình thường bất kể trường hợp nào, chẳng tên ngốc nào cả gan đến chuốc y, mặc dù do trời sinh tự kiềm chế, Trường Canh chưa từng uống say mèm, song suy đoán từ khả năng hai ba chén liền đau đầu, có thể tửu lượng y quả thật không được cao.

Bình thường Trường Canh cơ bản một giọt rượu cũng không uống, chỉ là hôm nay nghe lén hơn bốn canh giờ liền thật sự quá mệt mỏi, mới kêu người ta mang hai lạng rượu lên kích thích một chút. Ai ngờ chút men này chẳng những không trợ miên, đêm về còn khiến y khó ngủ.

Trường Canh trằn trọc trên giường rất lâu, sắp đến canh bốn mới mơ màng một lúc. Trong khi nửa ngủ nửa tỉnh dường như nghe thấy có người vào cửa, y cựa mình tỉnh dậy, giơ tay vặn ngọn đèn măng-sông nhỏ treo ở đầu giường, kết quả chẳng biết do kinh thành mưa nhiều ẩm ướt, hay phòng này nhiều ngày không ai ở, đèn chỉ lóe lên rồi lại tắt phụt.

Người tới quen thuộc ngồi trên cái sập nhỏ bên kia, cười nói: “Ngươi nằm trên giường ta làm gì thế?”

Trường Canh giật mình, mắt đã quen với bóng tối, nhờ chút ánh sáng le lói nhìn thấy vậy mà là Cố Quân về, vội hỏi: “Không phải nói còn hai ngày mới đến kinh thành à, sao về nhanh vậy?”

Cố Quân không chút để ý mà vươn vai, lưng dựa bên cạnh: “Nhớ ngươi, ta một mình ra roi thúc ngựa chạy về trước.”

Lần trước từ biệt còn là cuối năm, chớp mắt đông qua xuân đến, hiện giờ đã vào hạ, nửa năm rồi không gặp nhau, mặc dù Cố Quân thường xuyên kẹp trộm “hàng lậu” trong chiến báo, cách một thời gian lại gửi thư về, nhưng làm sao so được với người thật trước mắt? Trường Canh nhớ y vô cùng, lập tức muốn lao tới ôm y.

Cố Quân lại ngửa ra sau, nhẹ nhàng né tránh, thân như tờ giấy, hạ xuống trước cửa sổ, bên ngoài mưa đã tạnh, ánh trăng lặng lẽ từ trên vũng nước uốn lượn hắt vào phòng, Cố Quân đứng khuất sáng, Trường Canh nhìn thấy y mặc khinh cừu giáp vạn năm không cởi.

“Làm gì vừa gặp mặt đã động tay động chân?” Cố Quân nói, “Ta chỉ đến thăm ngươi thôi.”

Trường Canh nghe nửa câu đầu đang dở khóc dở cười, bụng nghĩ y trái lại ác nhân cáo trạng trước, cũng không biết ai thích động tay động chân hơn. Cho đến khi nghe nửa câu sau, nụ cười chợt tắt ngấm, mơ hồ cảm thấy hơi khác thường: “Tử Hi, ngươi sao thế?”

Cố Quân không lên tiếng, chỉ nhìn y.

Hai người một ngồi một đứng, nhìn nhau hồi lâu không nói gì, lại như là quyết biệt vậy.

Tim Trường Canh tự dưng đập như điên, khiến ngực y cơ hồ chẳng chứa được thứ gì khác, thở cũng không nổi. Y không nhịn được nữa, trở dậy đi đến chỗ Cố Quân, từ giường đến cửa sổ, chẳng qua bốn năm bước, mà y phảng phất không sao đi hết nổi.

Y đi tới một chút, Cố Quân liền muốn lui một chút.

Trường Canh chẳng ngó ngàng gì mà quay người chụp cây đèn măng-sông treo ở đầu giường, vặn điên cuồng, đèn phát ra vài tiếng nổ, đột nhiên sáng choang, trong phòng sáng rực, Trường Canh không để ý ngọn đèn chói mắt, hoảng loạn quay sang Cố Quân, lại thấy người đứng ở bên cửa sổ mặt trắng như tờ giấy, xám ngoét không giống người sống, hai dòng máu xuôi khóe môi và nốt ruồi chu sa nơi khóe mắt chảy xuống.

Đèn măng-sông “Phụt” một tiếng lại tắt ngấm.

Cố Quân khẽ thở dài: “Ta không thể ra sáng, ngươi đốt nó làm gì… Trường Canh, ta đi đây.”

“Không thể ra sáng” là ý gì? Trường Canh suýt nữa đương trường phát điên, bất chấp tất cả mà lao tới, liều mạng chộp lấy, lại chỉ nắm được huyền giáp lạnh thấu xương.

Trường Canh thét lên: “Ngươi đứng lại, ngươi muốn đi đâu! Cố Tử Hi!”

“Đi nơi nên đi.” Trong giọng nói của Cố Quân có chút lạnh lùng, “Ngươi hiện giờ vây cánh đã đủ, lừa được Lâm Uyên các, cướp được giang sơn Lý gia, thiên hạ phong vân tế hội đều nằm trong tay, thủ đoạn cao cỡ nào? Lý Phong không phải chết trên tay ngươi à? Ta ở lâu cũng vô ích, đặc biệt đến cáo từ.”

Trường Canh hoảng loạn nói: “Không, chờ đã, ta không có…”

Y theo trực giác muốn phản bác mình không có làm, nhưng ra đến môi lại chẳng nói nên lời, trong lòng hồ đồ, cảm thấy chuyện Cố Quân nói hình như quả thật là do mình làm.

Cố Quân lạnh lùng nói: “Ta được tiên đế ủy thác, đón ngươi từ Nhạn Hồi tiểu trấn về, chăm sóc tới tận khi ngươi thành nhân, mong ngươi cho dù không phải rường cột kinh thiên vĩ địa, ít nhất là một người tốt nhân phẩm đàng hoàng, tấm lòng rộng mở, nhưng ngươi đã làm gì?”

Đêm đầu hạ, Trường Canh đột nhiên cảm thấy lạnh hơn bao giờ hết.

“Ta theo ý chỉ của tiên đế trông nom đến khi ngươi trưởng thành, nhưng không ngờ lại nuôi ra một con sói Trung Sơn(1).” Cố Quân khẽ thở dài một hơi, “Đại Lương từ Thái Tổ khai quốc đến nay, đã hai trăm năm rồi, vốn tưởng rằng có thể ngàn thu muôn đời, ai ngờ ngọc tỷ truyền quốc hủy trên tay lứa chúng ta…”

Trường Canh muốn túm chặt lấy y, hoặc là gào khóc một phen, song cả người như bị ghim tại chỗ, chỉ có thể đờ đẫn nhìn Cố Quân nhẹ nhàng quay lưng đi, bỏ lại một câu: “Cố mỗ xuống cửu tuyền thỉnh tội, không cần gặp lại.”

Sau đó y lại xuyên qua tường, tan biến vào hư không, cửa sổ mở rộng trống vắng, Trường Canh nhất thời ngũ tạng bốc cháy, quát to một tiếng choàng tỉnh dậy, tim đập như sấm, mất một lúc mới định thần lại, chậm rãi thở ra một hơi tích tụ trong lồng ngực, muộn màng nhận ra – đó chỉ là một cơn ác mộng như thật.

Không biết là do uống rượu hay do cái gì, đầu y đau thắt từng cơn, tứ chi mỏi nhừ, ngủ một đêm còn mệt hơn không ngủ.

Trường Canh âm thầm tự bình tĩnh giây lát, đang định dậy uống ngụm nước, lại nhắm mắt nghỉ ngơi một hồi, ai ngờ vừa nhổm dậy, bất ngờ nhìn thấy trên chiếc ghế bên cửa sổ có một bóng đen, người ấy hít thở cực nhẹ nhàng chậm rãi, hiển nhiên là một cao thủ, đến mức Trường Canh vừa rồi do trống ngực, nhất thời lại không phát hiện ra.

Y quát lên theo bản năng: “Ai?”

Người nọ khẽ cười nói: “Ngươi nằm trên giường ta làm gì thế?”

Không còn gì đáng sợ hơn điều này, Trường Canh vốn còn chưa hoàn hồn thoát khỏi cơn ác mộng, lập tức khuỷu tay mềm nhũn, trực tiếp ngã lại xuống giường, cái giường cũ rích của Cố Quân từ ván giường đến gối không đâu không cứng, đụng một phát nào phải chuyện đùa, Nhạn thân vương kỹ càng bình tĩnh suýt nữa bị một cái gối đập ngất xỉu.

Cố Quân giật nảy mình, vội nhảy đến bên giường đỡ Trường Canh dậy.

Y bỏ Thẩm Dịch và đám thân binh lại sau lưng, tự mình chạy về sớm hai ngày, vốn định nghỉ ngơi một đêm sáng mai đi dọa Trường Canh giật nảy mình, ai ngờ vừa vào cửa liền phát hiện giường bị ai đó chiếm mất. Từ chỗ Trần cô nương, y biết Trường Canh ngủ không ngon, vốn đã khó ngủ, ngủ rồi cũng rất dễ bị kinh động, liền không nỡ đánh thức.

“Đụng trúng đâu? Ôi, để ta xem nào,” Cố Quân mù tịt, nói, “Hành vi cưu chiếm thước sào của ngươi tuy thật quá đáng, nhưng ta còn chưa nói gì mà, làm gì mà như gặp ma thế… khai mau, làm chuyện tốt gì sau lưng ta rồi?”

Trường Canh run rẩy túm tay y, lần này bắt được là nhiệt độ cơ thể người ấm áp, chút hơi ấm này mới giúp y đỡ hơn.

Cố Quân phát hiện cảm xúc của Trường Canh hơi bất ổn, muốn tán dóc vài câu làm dịu bầu không khí, thế là nói: “Sao không hỏi ta vì sao vội vàng về sớm hai ngày?”

Trường Canh lập tức biến sắc.

Cố Quân miệng quạ đen tiếp tục: “Nhớ ngươi, ta một mình ra roi thúc ngựa…”

Trường Canh quát to: “Đừng nói nữa!”

Giọng y thật sự quá thảm thiết, Cố Quân khựng lại, lập tức dè dặt hỏi: “Trường Canh, sao vậy?”

Vừa nói, y vừa thuận tay mò tìm cây đèn măng-sông ở đầu giường.

Nhưng chỉ vừa vặn nhẹ, đèn kia bập bùng một chút, sau đó “Phụt” một tiếng rồi không còn động tĩnh, ấy vậy mà đã hỏng.

Trong chớp mắt, hiện thực và ác mộng chồng lên nhau bằng một sự trùng hợp khó tin, Trường Canh khàn khàn và thấp giọng kêu một tiếng thảm thương, đau nhức âm ỉ ở tứ chi như thủy triều ùa vào lòng, hóa thành mười vạn tám ngàn loại ảo giác đáng sợ, ngoác cái miệng dữ tợn, một hơi nuốt trộng y.

—Thời Xuân Thu, Tấn quốc đại phu Triệu Giản Tử đi săn ở Trung Sơn, đuổi theo một con sói. Sói chạy trốn gặp Đông Quách tiên sinh đi ngang qua liền nói: “Tiên sinh có thể cho mượn túi để tôi trốn một lúc, tránh tai họa này không, tôi sẽ báo đáp đại ân của ngài.” Đông Quách tiên sinh thương tình giúp nó, trốn được Triệu Giản Tử, sau khi an toàn nó lại lao tới muốn ăn thịt ân nhân.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện