Cố Quân mặt không đổi sắc, trấn định lấy một bao thư từ trong lòng đưa cho Trường Canh.
Trong bao không có thư, chỉ có vỏ, bay ra mùi hương lành lạnh, dường như là hỗn hợp của trầm hương và giáng hương.
Đêm hôm trước, huyền ưng lục ra ba phong thư trên người hương sư bắt được, đây là một trong số đó, và ba phong có mùi không giống nhau. Hương sư kia khá cứng xương, nghiêm hình bức cung kiểu nào cũng không chịu khai – đương nhiên, trong thời gian ngắn, cho dù hắn khai, Cố Quân chưa chắc đã dám tin.
Trong ba phong thư, phong duy nhất Cố Quân có thể nói rõ xuất xứ, chính là phong này.
Tương truyền hương này là do hôn quân tiền triều mù quáng tin vào tà ma ngoại đạo, lệnh cho cung nhân chế ra thứ trợ thăng tiên, gọi là “ngự hoàng hương”, lạnh mà không thanh, ung dung hoa quý, ở chỗ tiên đế từng lén dự trữ một chút, có một năm tâm huyết dâng trào dùng một ít, mùi quả thật khác với huân hương thường dùng trong cung.
Tiên đế lén cho y biết, thứ này tuy dễ nghe, nhưng còn gọi là “vong quốc hương”, lén dùng một lần thì thôi, chứ để các Ngự sử biết lại ầm lên, nhất thiết không thể lộ ra.
Nhiều năm trôi qua, Cố Quân vẫn còn khắc sâu ấn tượng với “vong quốc hương” này.
Trường Canh mới hơi căng thẳng, Cố Quân liền lập tức nhận ra, không đợi y viết chữ vào tay mình, đã bắt đầu tự hỏi khả năng ném phong thư này ra lừa được lớn đến mức nào.
Cố Quân suy tính một chút, thầm nghĩ: “Lấy một trong ba, được, độ chắc ăn còn rất lớn, không được thì binh đến tướng chắn, nước đến đất chặn.”
Vạn hạnh, “độ chắc ăn” này chỉ có mình y nắm trong lòng, những người khác chỉ có thể nhìn thấy y ngoài mặt chắc chắn cực kỳ, đành phải bình tĩnh theo.
Người trung niên hơi thay đổi thần sắc, nhận phong thư, để dưới mũi ngửi vài lần, vẻ mặt thay đổi khó lường.
Trường Canh nghĩ bụng: “Phải động thủ sao?”
Nhưng Cố Quân ung dung vỗ vỗ mu bàn tay căng lên của y.
Người trung niên nọ lại ngẩng đầu nhìn Cố Quân, vẻ mặt nghiêm túc hơn không ít, nói: “Tại hạ Địch Tụng, chính là tổng bả đầu của số thương thuyền này, không biết tiên sinh từ đâu mà đến, muốn đi về đâu?”
Đây là tiếng lóng, Trường Canh viết rõ một năm một mười trong lòng bàn tay Cố Quân.
Cố Quân lần đầu tiên mở miệng, nói: “Đến từ trên mặt đất, đi tới Hao Lý.”
Nam tử trung niên tự xưng Địch Tụng kia dường như giật mình, do dự giây lát, giọng hơi yếu đi: “Vậy… vậy thì làm phiền hương tiên sinh, mời.”
Cố Quân đứng đó không nhúc nhích, điếc tròn vai vô cùng, cho tới khi Trường Canh kéo nhẹ một cái, y mới mặt không biểu cảm để Trường Canh dắt đi, rõ ràng là một “hương tiên sinh” mất hết ngũ cảm, tính tình cổ quái.
Nhờ cổ tay áo rộng thùng thình của Cố Quân che lấp, Trường Canh viết vào lòng bàn tay y: “Sao nghĩa phụ biết tiếng lóng của họ?”
Thật ra thì đây là đối thoại giữa hai thuyền viên mà huyền ưng đêm hôm trước phụng mệnh giám thị thương thuyền đã nghe lén được, không phân lớn nhỏ báo hết cho y, kỳ thực Cố Quân căn bản không biết nó có ý nghĩa gì, mà vẫn lừa gạt người ta.
Y hệt như một con sói, khoác lác với Trường Canh: “Chuyện gì ta chẳng biết.”
Trường Canh: “…”
Đoàn người thuận lợi lên thương thuyền Đông Doanh, mấy người Đông Doanh nhao nhao thò đầu ra, tò mò dòm ngó hương tiên sinh trong truyền thuyết.
Đông Doanh bị Đại Lương ảnh hưởng, văn hóa thần phật thịnh hành, không ít kẻ thấy một hòa thượng theo sau Cố Quân, liền rối rít lộ diện chào hỏi.
Trường Canh bình tĩnh đánh giá những người Đông Doanh này – số lượng so với y tưởng tượng còn nhiều hơn, lấy danh nghĩa hộ tống thương thuyền, trên người đều trang bị trường đao, có vài kẻ còn giắt thiết oản khấu với phi tiêu kiểu dáng cổ quái trên cổ tay và ống quần. Lại gần có thể ngửi được mùi máu tươi thoang thoảng trên người họ.
Đột nhiên phía sau có kẻ quát to một tiếng, một người Đông Doanh mang mặt nạ thần không biết quỷ không hay hạ xuống phía sau Cố Quân, không nói hai lời, vung loan đao chém tới lưng y.
Trường Canh phản ứng cực nhanh, kiếm chưa ra khỏi vỏ, đã chặn loan đao của đối phương.
Người Đông Doanh the thé kêu một tiếng kì lạ, thân thể nhỏ gầy uốn thành một độ cong cổ quái, cả người như con rắn không xương, loan đao trong tay hóa thành lưỡi rắn tà môn, liên tiếp xuất bảy đao về hướng Trường Canh, đồng thời, vai trái của hắn đột nhiên nở hoa, một mũi phi tiêu Đông Doanh bất ngờ phóng thẳng về hướng Cố Quân.
Mà Cố Quân kia không biết là diễn kịch phải diễn đến cùng hay là muốn thế nào, lại đứng tại chỗ chớ hề nhúc nhích, như là không hề hay biết!
Dưới tình thế cấp bách, vỏ và thân kiếm trong tay Trường Canh chia làm hai, y ném mạnh vỏ kiếm ra, đánh bay phi tiêu khi nó cơ hồ sượt ngực Cố Quân.
Trường Canh không phải lần đầu so chiêu với người ta, cũng không phải lần đầu hiểm tượng hoàn sinh, lại là lần đầu có kẻ suýt nữa đả thương tiểu nghĩa phụ ngay trước mặt y, chỉ tích tắc trong mắt y hiện lên một tầng đỏ nhạt, Ô Nhĩ Cốt trên người đột nhiên rục rịch.
Y khẽ quát một tiếng, cổ tay chợt chúi xuống, dùng chiêu thức bình thường đối phó khôi lỗi hầu kiếm, loan đao trong tay người Đông Doanh rung mạnh, cơ hồ bị đè cong, không chờ đối phương triệt đao, Trường Canh đã đá vào thắt lưng hắn.
Nghe nói để tiện bề vượt nóc băng tường ẩn nấp ám sát, thân thể một số người Đông Doanh nhỏ gầy hơn bình thường, nam nhân như rắn này chắc là nhân tài kiệt xuất trong số đó, tuy rằng quả nhiên linh hoạt quỷ quyệt, nhưng cũng thật sự không chịu được đòn, bị Trường Canh đá suýt lòi cả ruột, không cầm nổi loan đao nữa, lảo đảo tránh đi.
Thế nhưng Trường Canh không định buông tha, mũi chân khều loan đao dưới đất, ghim trước mặt hắn ta, trường kiếm trong tay xoay một vòng, muốn chém người Đông Doanh kia làm đôi.
Việc này chỉ diễn ra trong tích tắc, chung quanh cả địch lẫn hữu, chưa ai kịp phản ứng, đã thấy Trường Canh động tác mau lẹ muốn ra đòn sát thủ, ba tiếng “dừng tay” đồng thời vang lên.
Mấy thanh trường đao Đông Dương đồng thời từ bốn phía giơ tới, ba chân bốn cẳng cản kiếm phong bễ nghễ vô song của Trường Canh.
Liễu Nhiên hòa thượng há hốc mồm đứng nhìn lúc này mới kịp lau mồ hôi – Trường Canh đêm hôm trước uy hiếp đâm chết hắn lại là thật.
Trường Canh thấp giọng nói: “Tránh ra!”
Địch Tụng vội chạy tới, luôn mồm nói: “Hiểu lầm hiểu lầm, đều là hiểu lầm thôi. Vị Thượng Xuyên tiên sinh này mới đến Đại Lương, chưa hiểu quy củ lắm, thấy tiểu huynh đệ đeo đao, liền muốn đùa giỡn một chút, tiểu huynh đệ đại nhân đại lượng, đừng chấp nhặt.”
Trường Canh đôi mắt hơi phiếm đỏ nhìn chằm chằm xà nam sợ hãi lui ra sau người ta, gằn hai chữ: “Đùa giỡn?”
Địch Tụng cười làm lành, quay sang Cố Quân đứng ngoài như không có việc gì: “Trương tiên sinh…”
Nhìn khuôn mặt vô cảm của vị ấy, hắn lại nhớ ra hương sư cấp cao nhất đều không nhìn thấy cũng chẳng nghe thấy, đành phải tiến lên một bước, muốn vỗ cánh tay Cố Quân.
Còn chưa đụng trúng thì phía sau đột nhiên có một đạo lệ phong kéo tới, may mà Địch Tụng phản ứng nhanh, nếu không từ cổ tay trở xuống sẽ khó giữ.
Trường Canh: “Đừng đụng vào y!”
Địch Tụng: “…”
Trong nhóm người này, một kẻ không nghe thấy, một kẻ không thể nói, một đôi trẻ choai choai đứng cạnh nhau như trống cơm và chày gỗ, chỉ một người có thể thay mặt họ nói chuyện, thì vỏ của thanh hung khí trong tay còn chưa nhặt lên.
Bầu không khí nhất thời căng thẳng hẳn.
Lúc này, Cố Quân rốt cuộc mở miệng: “Còn đứng đây làm gì? Đừng để lỡ thời gian xuất phát thuyền.”
Cuộc xung đột kinh tâm động phách vừa rồi, dường như y hoàn toàn không cảm nhận được.
Địch Tụng vội hòa giải: “Đúng thế đúng thế, đều là người một nhà…”
Hắn còn chưa dứt lời, Cố Quân đã không coi ai ra gì mà giơ một tay lên, Trường Canh dừng một chút, đoạn dùng mũi kiếm khều vỏ kiếm dưới đất, tra kiếm vào, tiến lên đỡ tay Cố Quân mà dẫn đi.
Liễu Nhiên hòa thượng đành phải đoạn hậu, hắn hòa khí chắp tay một lần với đám người Đông Doanh hoảng sợ xung quanh, lại không biết lấy từ đâu ra mớ phật châu gỗ cũ rích, bên ngoài phật châu có một lớp sơn đỏ sậm, đóng giả đàn hương đỏ, lớp sơn lâu năm đã bị hòa thượng xoay rớt, thành một chuỗi đàn hương đỏ loang lổ.
Tiếu hòa thượng mặt trắng đồng dạng quần áo loang lổ cười tươi rói, im lặng tụng kinh, vừa siêu độ những người trước mắt, vừa xua Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đuổi theo.
Lúc này, những người Đông Doanh gặp gỡ dọc đường đều như lâm đại địch nhìn theo bóng lưng họ, nhất thời không còn ai dám tới chào hỏi.
Trường Canh thần kinh căng thẳng đưa Cố Quân đến thẳng gian phòng mà thương thuyền đặc biệt chuẩn bị cho hương sư, cẩn thận nhìn thoáng qua bên ngoài, mới đóng cửa quay lại: “Nghĩa…”
Cố Quân quay người lại, giơ một ngón tay lên miệng.
Với thính lực của Cố Quân lúc này, trừ phi hét vào tai y, nếu không căn bản chẳng nghe rõ cái gì.
Xung quanh yên tĩnh đến mức chỉ còn lại tiếng thầm thì khe khẽ, nhưng y có thể thông qua dòng khí kéo theo khi Trường Canh đóng cửa cấp tốc quay người lại để phán đoán đứa trẻ kia có thể muốn nói chuyện với mình, vội vã ngăn lại trước.
Thứ thuốc đặc biệt của Cố Quân là do một vị cao nhân dân gian mà cựu bộ của lão Hầu gia không biết tìm đâu ra kê cho lúc hơn mười tuổi, trước đó y vẫn phải chịu đựng tai mắt mù điếc bất tiện.
Lão Hầu gia nửa đời thiết huyết, nghiêm với chính mình, so với bản thân càng nghiêm hơn chính là nhi tử, căn bản không biết hai chữ “cưng chiều” viết thế nào, bất kể Cố Quân nhìn thấy hay không, bất kể trong lòng y có cảm giác gì, công phu nên luyện phải luyện, thiết khôi lỗi cũng tuyệt đối không vì tai mắt y bất tiện mà nể tình một chút. Đó không phải là khôi lỗi hầu kiếm như loại y cho Trường Canh chơi – khôi lỗi hầu kiếm tuy trông đáng sợ, nhưng được đặc biệt điều chỉnh qua, so chiêu với con người đều dừng đúng lúc, đao kiếm trong tay không đả thương ai.
Thiết khôi lỗi chân chính mà động thủ thì chính là một đám súc sinh bằng sắt không có tình người, đâu thèm để ý gì? Y phải thông qua tầm nhìn và thính lực yếu ớt cùng gió nhẹ lưu động xung quanh để quần nhau với nó, mà vô luận Cố Quân tuổi nhỏ cố gắng thế nào, y vĩnh viễn đều không theo kịp yêu cầu của lão Hầu gia, mỗi lần vừa có thể thích ứng một loại tốc độ và sức mạnh, sẽ lập tức bị nâng lên.
Lão Hầu gia nói là: “Hoặc là ngươi tự mình đứng dậy, hoặc là ngươi tìm xà nhà mà treo cổ, Cố gia thà tuyệt hậu, cũng không giữ lại phế vật.”
Câu này tựa như một cây đinh thép lạnh lẽo, đóng vào xương cốt từ khi Cố Quân còn rất nhỏ, cả đời không cách nào nhổ ra, cho đến khi lão Hầu gia qua đời, Cố Quân vào cung, y cũng không dám thả lỏng một ngày.
Loại cảm quan trình độ cao nhất nhiều năm mài giũa ra này luôn có thể giúp y che đậy một phần trong vài trường hợp, đây cũng là nguyên nhân chưa cóng đến mức phàm thai nhục thể không chịu nổi thì y không mặc áo ấm.
Bởi vì hồ cừu nặng nề và áo bông dày cộp sẽ ảnh hưởng đến cảm giác của y.
Cố Quân quờ quạng chốc lát, viết vào lòng bàn tay Trường Canh: “Mới giao thủ với ngươi là một Ninja Đông Doanh, những người đó bản lĩnh trộm cắp rất khá, coi chừng tai vách mạch rừng.”
Trường Canh cúi đầu, không nhịn được nắm lấy bàn tay đầy các vết chai mỏng của Cố Quân, kế đó y thở ra một hơi lệ khí thật dài dâng trào không ngớt ở ngực, lắc đầu tự giễu – Cố Quân vĩnh viễn trấn định, sợ chết khiếp vĩnh viễn là y.
Cố Quân rất đỗi buồn bực, không biết đang yên đang lành y thở dài cái gì, nghiêng đầu “nhìn” y, nhướng một bên mày.
Trường Canh nhân đối phương đang che mắt, càn rỡ nhìn chăm chăm.
Cố Quân lần theo cánh tay y sờ đến đầu, vỗ về đầu y.
Trường Canh nhắm mắt, suýt nữa muốn cọ tay người kia, nhịn xuống một cách khó khăn.
Y lấy tay Cố Quân xuống, viết: “Lần đầu đi theo nghĩa phụ gặp tình cảnh này, trong lòng có chút bất an, có hơi sợ.”
Sợ nhất chính là chớp mắt người Đông Doanh kia ném phi tiêu tới ngực Cố Quân.
Cố Quân dường như nhớ tới điều gì, bỗng nở nụ cười.
Trường Canh: “Người cười gì?”
“Ta quá phóng túng ngươi rồi,” Cố Quân rồng bay phượng múa viết vào lòng bàn tay y, “Năm đó nếu ta dám nói một chữ ‘sợ’ trước mặt cha ta, thì nhất định phải ăn gậy.”
Trường Canh im lặng: “Vậy tại sao người chưa từng dùng gậy đánh con?”
Chẳng những chưa từng đánh, ngay cả nghiêm giọng nổi giận cũng hiếm thấy, vĩnh viễn chẳng mắng quá ba câu.
Ban đầu khi y đối mặt với khôi lỗi hầu kiếm lòng có sợ hãi, thích ứng chưa được, Cố Quân cũng chưa từng lộ ra quá nhiều thất vọng hay thiếu kiên nhẫn. Cách hơn một năm, Trường Canh nhớ lại, cảm thấy đó không hề là ánh mắt một tiền bối nghiêm khắc dạy hậu bối, mà giống đang cười tít mắt xem một đứa trẻ vụng về chơi đùa hơn.
Cố Quân lại viết: “Người Đông Doanh động thủ rất phiền toái, mánh khóe rất nhiều, nhưng cao thủ chân chính không nhiều lắm. Phi tiêu của hắn thế tới rào rạt, kỳ thực quỹ tích là cong, chỉ để thử xem ta có phải mù thật hay không. Người Đông Doanh trên thuyền này cũng không có gì đáng sợ, điều ta lo lắng chính là mục đích của họ.”
Thương thuyền phải từ thông lộ giữa đường biển và đường sông chậm rãi rời đất liền, nhập hải về Đông, đưa hàng hóa về bản thổ Đông Doanh, trên đường qua mấy trạm kiểm tra.
Trên thuyền hương liệu phải có hương sư đi theo, để thời điểm qua trạm kiểm tra nộp lên hàng mẫu đã kiểm nghiệm, cho nên vô luận mục đích chân chính của mấy thương thuyền này là gì, chung quy phải có một hương sư để che đậy.
Thuyền đi hơn chục ngày, Cát Bàn Tiểu lén lút chui vào phòng Cố Quân: “Hầu… Trương tiên sinh, Trường Canh đại ca.”
Nói xong, gã nhìn thấy băng mắt trên mặt Cố hầu gia, lại lẩm bẩm: “Quên mất y bị điếc.”
Nói đoạn gã bắt đầu móc đồ nghề từ trong lòng ra, trước là hai cái la bàn, kế là một cái hộp không ngừng bốc khói trắng ra, tiểu bàn tử này hết sức thần kỳ, bụng như co giãn được, co vào có thể nhét rất nhiều thứ vào lòng, lấy đồ ra… cũng không thấy “gầy” đi.
Trường Canh: “Đây là cái gì? Bên trong còn đốt gì nữa vậy?”
Cát Bàn Tiểu cười nói: “Hì hì, tử lưu kim đó.”
Trường Canh giật mình hỏi: “Ngươi không thấy nóng à?”
Cát Bàn Tiểu phanh áo ra, chỉ thấy trước ngực gã có một tấm màu tối, dùng cách nhiệt ở chỗ trọng giáp lắp đoản pháo, bị gã cắt thành hình cái yếm. Cát Bàn Tiểu không biết xấu hổ vỗ vỗ bụng: “Yếm sắt!”
Cố Quân tháo khăn che mắt, đeo kính lưu ly, sán lại cẩn thận xem xét kiệt tác của Cát Bàn Tiểu, trong lòng hết sức bái phục, cảm thấy mấy đứa con nít quỷ này bình thường ngoài chơi ra thì chẳng biết cái chó gì, nhưng lúc trước nhỏ như vậy đã quyết đoán rời Nhạn Hồi tiểu trấn theo Trường Canh lên kinh thành, trong bụng tuy chưa lắm mưu mô, song khẳng định rất lắm cách.
Cát Bàn Tiểu học thủ ngữ của Liễu Nhiên hòa thượng ra dấu nói: “Ai quy định chỉ có nữ mới được mặc yếm?”
Cố Quân bật ngón cái – nói đúng lắm!
Trường Canh: “…”
Trên bàn hai cái la bàn đối diện nhau xoay loạn xà ngầu, Cát Bàn Tiểu ra hiệu bảo hai người xem, dùng tay gõ nhẹ bàn, đưa ba ngón ra dấu – la bàn chí ít loạn ba ngày rồi.
Cố Quân thường xuyên đi ra ngoài, nhìn qua là hiểu, thầy phong thủy bình thường đi xa đều mang hai cái la bàn, nếu một trong hai mất hiệu lực, xem cái kia có thể biết là la bàn hỏng hay khu vực đó có vấn đề. Trên biển hoặc trong sa mạc thường xuyên có một số nơi có thể khiến la bàn mất hiệu lực, thuyền buôn và thuyền đánh cá bình thường đều tránh đi, mà đám người Đông Doanh này chẳng những không tránh né, còn cố ý đi vào, tuyến đường không hề nghi ngờ là đã lệch khỏi mục đích định trước.
“Đến từ mặt đất, đi tới Hao Lý”, “Hao Lý” này rốt cuộc ám chỉ cái gì?
Cát Bàn Tiểu: “May mà ta còn mang theo thứ này.”
Nói xong gã mở cái hộp nhỏ liên tục bốc khói trắng kia, chỉ thấy bên trong là một vật nho nhỏ cực tinh xảo, chính giữa có bánh xe be bé chuyển động nhanh chóng, liền với một trục, bên ngoài có vài vòng tròn vàng rực, góc khắc chữ “linh” theo kiểu chữ Triện, lại là xuất phẩm của Linh Xu viện.
“Đây là mẫu Linh Xu viện cho, lúc xoay thì trục này vĩnh viễn chỉ một phương hướng,” Cát Bàn Tiểu đưa tay chỉ, “Chính là cái này – nó chuẩn hơn la bàn, nhưng hao tử lưu kim, thành phẩm chưa ra mà nghe nói đã bị bên trên bác bỏ, ta với đại sư lén làm một cái, trước lúc đi đã lấy một bát tử lưu kim trên khôi lỗi hầu kiếm của đại ca.”
Cố Quân cẩn thận đưa tay bưng nó lên, vật này làm quá khéo léo, y chỉ sợ mình mạnh tay làm hỏng: “Thứ này nếu để Thẩm Dịch nhìn thấy, đủ để y lấy thân báo đáp đấy.”
Trường Canh nghe câu này mà ngực phát ngộp.
Cát Bàn Tiểu lại không biết kiếm từ đâu ra một tấm bản đồ da dê, nhăn nhúm trải lên bàn, đầu ngón tay ngắn tũn múa may bên trên một lúc lâu, cuối cùng dừng ở một điểm.
“Theo phương hướng này, ta và Liễu Nhiên đại sư suy đoán, chúng ta sẽ lập tức đến nơi này.”
Trong bao không có thư, chỉ có vỏ, bay ra mùi hương lành lạnh, dường như là hỗn hợp của trầm hương và giáng hương.
Đêm hôm trước, huyền ưng lục ra ba phong thư trên người hương sư bắt được, đây là một trong số đó, và ba phong có mùi không giống nhau. Hương sư kia khá cứng xương, nghiêm hình bức cung kiểu nào cũng không chịu khai – đương nhiên, trong thời gian ngắn, cho dù hắn khai, Cố Quân chưa chắc đã dám tin.
Trong ba phong thư, phong duy nhất Cố Quân có thể nói rõ xuất xứ, chính là phong này.
Tương truyền hương này là do hôn quân tiền triều mù quáng tin vào tà ma ngoại đạo, lệnh cho cung nhân chế ra thứ trợ thăng tiên, gọi là “ngự hoàng hương”, lạnh mà không thanh, ung dung hoa quý, ở chỗ tiên đế từng lén dự trữ một chút, có một năm tâm huyết dâng trào dùng một ít, mùi quả thật khác với huân hương thường dùng trong cung.
Tiên đế lén cho y biết, thứ này tuy dễ nghe, nhưng còn gọi là “vong quốc hương”, lén dùng một lần thì thôi, chứ để các Ngự sử biết lại ầm lên, nhất thiết không thể lộ ra.
Nhiều năm trôi qua, Cố Quân vẫn còn khắc sâu ấn tượng với “vong quốc hương” này.
Trường Canh mới hơi căng thẳng, Cố Quân liền lập tức nhận ra, không đợi y viết chữ vào tay mình, đã bắt đầu tự hỏi khả năng ném phong thư này ra lừa được lớn đến mức nào.
Cố Quân suy tính một chút, thầm nghĩ: “Lấy một trong ba, được, độ chắc ăn còn rất lớn, không được thì binh đến tướng chắn, nước đến đất chặn.”
Vạn hạnh, “độ chắc ăn” này chỉ có mình y nắm trong lòng, những người khác chỉ có thể nhìn thấy y ngoài mặt chắc chắn cực kỳ, đành phải bình tĩnh theo.
Người trung niên hơi thay đổi thần sắc, nhận phong thư, để dưới mũi ngửi vài lần, vẻ mặt thay đổi khó lường.
Trường Canh nghĩ bụng: “Phải động thủ sao?”
Nhưng Cố Quân ung dung vỗ vỗ mu bàn tay căng lên của y.
Người trung niên nọ lại ngẩng đầu nhìn Cố Quân, vẻ mặt nghiêm túc hơn không ít, nói: “Tại hạ Địch Tụng, chính là tổng bả đầu của số thương thuyền này, không biết tiên sinh từ đâu mà đến, muốn đi về đâu?”
Đây là tiếng lóng, Trường Canh viết rõ một năm một mười trong lòng bàn tay Cố Quân.
Cố Quân lần đầu tiên mở miệng, nói: “Đến từ trên mặt đất, đi tới Hao Lý.”
Nam tử trung niên tự xưng Địch Tụng kia dường như giật mình, do dự giây lát, giọng hơi yếu đi: “Vậy… vậy thì làm phiền hương tiên sinh, mời.”
Cố Quân đứng đó không nhúc nhích, điếc tròn vai vô cùng, cho tới khi Trường Canh kéo nhẹ một cái, y mới mặt không biểu cảm để Trường Canh dắt đi, rõ ràng là một “hương tiên sinh” mất hết ngũ cảm, tính tình cổ quái.
Nhờ cổ tay áo rộng thùng thình của Cố Quân che lấp, Trường Canh viết vào lòng bàn tay y: “Sao nghĩa phụ biết tiếng lóng của họ?”
Thật ra thì đây là đối thoại giữa hai thuyền viên mà huyền ưng đêm hôm trước phụng mệnh giám thị thương thuyền đã nghe lén được, không phân lớn nhỏ báo hết cho y, kỳ thực Cố Quân căn bản không biết nó có ý nghĩa gì, mà vẫn lừa gạt người ta.
Y hệt như một con sói, khoác lác với Trường Canh: “Chuyện gì ta chẳng biết.”
Trường Canh: “…”
Đoàn người thuận lợi lên thương thuyền Đông Doanh, mấy người Đông Doanh nhao nhao thò đầu ra, tò mò dòm ngó hương tiên sinh trong truyền thuyết.
Đông Doanh bị Đại Lương ảnh hưởng, văn hóa thần phật thịnh hành, không ít kẻ thấy một hòa thượng theo sau Cố Quân, liền rối rít lộ diện chào hỏi.
Trường Canh bình tĩnh đánh giá những người Đông Doanh này – số lượng so với y tưởng tượng còn nhiều hơn, lấy danh nghĩa hộ tống thương thuyền, trên người đều trang bị trường đao, có vài kẻ còn giắt thiết oản khấu với phi tiêu kiểu dáng cổ quái trên cổ tay và ống quần. Lại gần có thể ngửi được mùi máu tươi thoang thoảng trên người họ.
Đột nhiên phía sau có kẻ quát to một tiếng, một người Đông Doanh mang mặt nạ thần không biết quỷ không hay hạ xuống phía sau Cố Quân, không nói hai lời, vung loan đao chém tới lưng y.
Trường Canh phản ứng cực nhanh, kiếm chưa ra khỏi vỏ, đã chặn loan đao của đối phương.
Người Đông Doanh the thé kêu một tiếng kì lạ, thân thể nhỏ gầy uốn thành một độ cong cổ quái, cả người như con rắn không xương, loan đao trong tay hóa thành lưỡi rắn tà môn, liên tiếp xuất bảy đao về hướng Trường Canh, đồng thời, vai trái của hắn đột nhiên nở hoa, một mũi phi tiêu Đông Doanh bất ngờ phóng thẳng về hướng Cố Quân.
Mà Cố Quân kia không biết là diễn kịch phải diễn đến cùng hay là muốn thế nào, lại đứng tại chỗ chớ hề nhúc nhích, như là không hề hay biết!
Dưới tình thế cấp bách, vỏ và thân kiếm trong tay Trường Canh chia làm hai, y ném mạnh vỏ kiếm ra, đánh bay phi tiêu khi nó cơ hồ sượt ngực Cố Quân.
Trường Canh không phải lần đầu so chiêu với người ta, cũng không phải lần đầu hiểm tượng hoàn sinh, lại là lần đầu có kẻ suýt nữa đả thương tiểu nghĩa phụ ngay trước mặt y, chỉ tích tắc trong mắt y hiện lên một tầng đỏ nhạt, Ô Nhĩ Cốt trên người đột nhiên rục rịch.
Y khẽ quát một tiếng, cổ tay chợt chúi xuống, dùng chiêu thức bình thường đối phó khôi lỗi hầu kiếm, loan đao trong tay người Đông Doanh rung mạnh, cơ hồ bị đè cong, không chờ đối phương triệt đao, Trường Canh đã đá vào thắt lưng hắn.
Nghe nói để tiện bề vượt nóc băng tường ẩn nấp ám sát, thân thể một số người Đông Doanh nhỏ gầy hơn bình thường, nam nhân như rắn này chắc là nhân tài kiệt xuất trong số đó, tuy rằng quả nhiên linh hoạt quỷ quyệt, nhưng cũng thật sự không chịu được đòn, bị Trường Canh đá suýt lòi cả ruột, không cầm nổi loan đao nữa, lảo đảo tránh đi.
Thế nhưng Trường Canh không định buông tha, mũi chân khều loan đao dưới đất, ghim trước mặt hắn ta, trường kiếm trong tay xoay một vòng, muốn chém người Đông Doanh kia làm đôi.
Việc này chỉ diễn ra trong tích tắc, chung quanh cả địch lẫn hữu, chưa ai kịp phản ứng, đã thấy Trường Canh động tác mau lẹ muốn ra đòn sát thủ, ba tiếng “dừng tay” đồng thời vang lên.
Mấy thanh trường đao Đông Dương đồng thời từ bốn phía giơ tới, ba chân bốn cẳng cản kiếm phong bễ nghễ vô song của Trường Canh.
Liễu Nhiên hòa thượng há hốc mồm đứng nhìn lúc này mới kịp lau mồ hôi – Trường Canh đêm hôm trước uy hiếp đâm chết hắn lại là thật.
Trường Canh thấp giọng nói: “Tránh ra!”
Địch Tụng vội chạy tới, luôn mồm nói: “Hiểu lầm hiểu lầm, đều là hiểu lầm thôi. Vị Thượng Xuyên tiên sinh này mới đến Đại Lương, chưa hiểu quy củ lắm, thấy tiểu huynh đệ đeo đao, liền muốn đùa giỡn một chút, tiểu huynh đệ đại nhân đại lượng, đừng chấp nhặt.”
Trường Canh đôi mắt hơi phiếm đỏ nhìn chằm chằm xà nam sợ hãi lui ra sau người ta, gằn hai chữ: “Đùa giỡn?”
Địch Tụng cười làm lành, quay sang Cố Quân đứng ngoài như không có việc gì: “Trương tiên sinh…”
Nhìn khuôn mặt vô cảm của vị ấy, hắn lại nhớ ra hương sư cấp cao nhất đều không nhìn thấy cũng chẳng nghe thấy, đành phải tiến lên một bước, muốn vỗ cánh tay Cố Quân.
Còn chưa đụng trúng thì phía sau đột nhiên có một đạo lệ phong kéo tới, may mà Địch Tụng phản ứng nhanh, nếu không từ cổ tay trở xuống sẽ khó giữ.
Trường Canh: “Đừng đụng vào y!”
Địch Tụng: “…”
Trong nhóm người này, một kẻ không nghe thấy, một kẻ không thể nói, một đôi trẻ choai choai đứng cạnh nhau như trống cơm và chày gỗ, chỉ một người có thể thay mặt họ nói chuyện, thì vỏ của thanh hung khí trong tay còn chưa nhặt lên.
Bầu không khí nhất thời căng thẳng hẳn.
Lúc này, Cố Quân rốt cuộc mở miệng: “Còn đứng đây làm gì? Đừng để lỡ thời gian xuất phát thuyền.”
Cuộc xung đột kinh tâm động phách vừa rồi, dường như y hoàn toàn không cảm nhận được.
Địch Tụng vội hòa giải: “Đúng thế đúng thế, đều là người một nhà…”
Hắn còn chưa dứt lời, Cố Quân đã không coi ai ra gì mà giơ một tay lên, Trường Canh dừng một chút, đoạn dùng mũi kiếm khều vỏ kiếm dưới đất, tra kiếm vào, tiến lên đỡ tay Cố Quân mà dẫn đi.
Liễu Nhiên hòa thượng đành phải đoạn hậu, hắn hòa khí chắp tay một lần với đám người Đông Doanh hoảng sợ xung quanh, lại không biết lấy từ đâu ra mớ phật châu gỗ cũ rích, bên ngoài phật châu có một lớp sơn đỏ sậm, đóng giả đàn hương đỏ, lớp sơn lâu năm đã bị hòa thượng xoay rớt, thành một chuỗi đàn hương đỏ loang lổ.
Tiếu hòa thượng mặt trắng đồng dạng quần áo loang lổ cười tươi rói, im lặng tụng kinh, vừa siêu độ những người trước mắt, vừa xua Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đuổi theo.
Lúc này, những người Đông Doanh gặp gỡ dọc đường đều như lâm đại địch nhìn theo bóng lưng họ, nhất thời không còn ai dám tới chào hỏi.
Trường Canh thần kinh căng thẳng đưa Cố Quân đến thẳng gian phòng mà thương thuyền đặc biệt chuẩn bị cho hương sư, cẩn thận nhìn thoáng qua bên ngoài, mới đóng cửa quay lại: “Nghĩa…”
Cố Quân quay người lại, giơ một ngón tay lên miệng.
Với thính lực của Cố Quân lúc này, trừ phi hét vào tai y, nếu không căn bản chẳng nghe rõ cái gì.
Xung quanh yên tĩnh đến mức chỉ còn lại tiếng thầm thì khe khẽ, nhưng y có thể thông qua dòng khí kéo theo khi Trường Canh đóng cửa cấp tốc quay người lại để phán đoán đứa trẻ kia có thể muốn nói chuyện với mình, vội vã ngăn lại trước.
Thứ thuốc đặc biệt của Cố Quân là do một vị cao nhân dân gian mà cựu bộ của lão Hầu gia không biết tìm đâu ra kê cho lúc hơn mười tuổi, trước đó y vẫn phải chịu đựng tai mắt mù điếc bất tiện.
Lão Hầu gia nửa đời thiết huyết, nghiêm với chính mình, so với bản thân càng nghiêm hơn chính là nhi tử, căn bản không biết hai chữ “cưng chiều” viết thế nào, bất kể Cố Quân nhìn thấy hay không, bất kể trong lòng y có cảm giác gì, công phu nên luyện phải luyện, thiết khôi lỗi cũng tuyệt đối không vì tai mắt y bất tiện mà nể tình một chút. Đó không phải là khôi lỗi hầu kiếm như loại y cho Trường Canh chơi – khôi lỗi hầu kiếm tuy trông đáng sợ, nhưng được đặc biệt điều chỉnh qua, so chiêu với con người đều dừng đúng lúc, đao kiếm trong tay không đả thương ai.
Thiết khôi lỗi chân chính mà động thủ thì chính là một đám súc sinh bằng sắt không có tình người, đâu thèm để ý gì? Y phải thông qua tầm nhìn và thính lực yếu ớt cùng gió nhẹ lưu động xung quanh để quần nhau với nó, mà vô luận Cố Quân tuổi nhỏ cố gắng thế nào, y vĩnh viễn đều không theo kịp yêu cầu của lão Hầu gia, mỗi lần vừa có thể thích ứng một loại tốc độ và sức mạnh, sẽ lập tức bị nâng lên.
Lão Hầu gia nói là: “Hoặc là ngươi tự mình đứng dậy, hoặc là ngươi tìm xà nhà mà treo cổ, Cố gia thà tuyệt hậu, cũng không giữ lại phế vật.”
Câu này tựa như một cây đinh thép lạnh lẽo, đóng vào xương cốt từ khi Cố Quân còn rất nhỏ, cả đời không cách nào nhổ ra, cho đến khi lão Hầu gia qua đời, Cố Quân vào cung, y cũng không dám thả lỏng một ngày.
Loại cảm quan trình độ cao nhất nhiều năm mài giũa ra này luôn có thể giúp y che đậy một phần trong vài trường hợp, đây cũng là nguyên nhân chưa cóng đến mức phàm thai nhục thể không chịu nổi thì y không mặc áo ấm.
Bởi vì hồ cừu nặng nề và áo bông dày cộp sẽ ảnh hưởng đến cảm giác của y.
Cố Quân quờ quạng chốc lát, viết vào lòng bàn tay Trường Canh: “Mới giao thủ với ngươi là một Ninja Đông Doanh, những người đó bản lĩnh trộm cắp rất khá, coi chừng tai vách mạch rừng.”
Trường Canh cúi đầu, không nhịn được nắm lấy bàn tay đầy các vết chai mỏng của Cố Quân, kế đó y thở ra một hơi lệ khí thật dài dâng trào không ngớt ở ngực, lắc đầu tự giễu – Cố Quân vĩnh viễn trấn định, sợ chết khiếp vĩnh viễn là y.
Cố Quân rất đỗi buồn bực, không biết đang yên đang lành y thở dài cái gì, nghiêng đầu “nhìn” y, nhướng một bên mày.
Trường Canh nhân đối phương đang che mắt, càn rỡ nhìn chăm chăm.
Cố Quân lần theo cánh tay y sờ đến đầu, vỗ về đầu y.
Trường Canh nhắm mắt, suýt nữa muốn cọ tay người kia, nhịn xuống một cách khó khăn.
Y lấy tay Cố Quân xuống, viết: “Lần đầu đi theo nghĩa phụ gặp tình cảnh này, trong lòng có chút bất an, có hơi sợ.”
Sợ nhất chính là chớp mắt người Đông Doanh kia ném phi tiêu tới ngực Cố Quân.
Cố Quân dường như nhớ tới điều gì, bỗng nở nụ cười.
Trường Canh: “Người cười gì?”
“Ta quá phóng túng ngươi rồi,” Cố Quân rồng bay phượng múa viết vào lòng bàn tay y, “Năm đó nếu ta dám nói một chữ ‘sợ’ trước mặt cha ta, thì nhất định phải ăn gậy.”
Trường Canh im lặng: “Vậy tại sao người chưa từng dùng gậy đánh con?”
Chẳng những chưa từng đánh, ngay cả nghiêm giọng nổi giận cũng hiếm thấy, vĩnh viễn chẳng mắng quá ba câu.
Ban đầu khi y đối mặt với khôi lỗi hầu kiếm lòng có sợ hãi, thích ứng chưa được, Cố Quân cũng chưa từng lộ ra quá nhiều thất vọng hay thiếu kiên nhẫn. Cách hơn một năm, Trường Canh nhớ lại, cảm thấy đó không hề là ánh mắt một tiền bối nghiêm khắc dạy hậu bối, mà giống đang cười tít mắt xem một đứa trẻ vụng về chơi đùa hơn.
Cố Quân lại viết: “Người Đông Doanh động thủ rất phiền toái, mánh khóe rất nhiều, nhưng cao thủ chân chính không nhiều lắm. Phi tiêu của hắn thế tới rào rạt, kỳ thực quỹ tích là cong, chỉ để thử xem ta có phải mù thật hay không. Người Đông Doanh trên thuyền này cũng không có gì đáng sợ, điều ta lo lắng chính là mục đích của họ.”
Thương thuyền phải từ thông lộ giữa đường biển và đường sông chậm rãi rời đất liền, nhập hải về Đông, đưa hàng hóa về bản thổ Đông Doanh, trên đường qua mấy trạm kiểm tra.
Trên thuyền hương liệu phải có hương sư đi theo, để thời điểm qua trạm kiểm tra nộp lên hàng mẫu đã kiểm nghiệm, cho nên vô luận mục đích chân chính của mấy thương thuyền này là gì, chung quy phải có một hương sư để che đậy.
Thuyền đi hơn chục ngày, Cát Bàn Tiểu lén lút chui vào phòng Cố Quân: “Hầu… Trương tiên sinh, Trường Canh đại ca.”
Nói xong, gã nhìn thấy băng mắt trên mặt Cố hầu gia, lại lẩm bẩm: “Quên mất y bị điếc.”
Nói đoạn gã bắt đầu móc đồ nghề từ trong lòng ra, trước là hai cái la bàn, kế là một cái hộp không ngừng bốc khói trắng ra, tiểu bàn tử này hết sức thần kỳ, bụng như co giãn được, co vào có thể nhét rất nhiều thứ vào lòng, lấy đồ ra… cũng không thấy “gầy” đi.
Trường Canh: “Đây là cái gì? Bên trong còn đốt gì nữa vậy?”
Cát Bàn Tiểu cười nói: “Hì hì, tử lưu kim đó.”
Trường Canh giật mình hỏi: “Ngươi không thấy nóng à?”
Cát Bàn Tiểu phanh áo ra, chỉ thấy trước ngực gã có một tấm màu tối, dùng cách nhiệt ở chỗ trọng giáp lắp đoản pháo, bị gã cắt thành hình cái yếm. Cát Bàn Tiểu không biết xấu hổ vỗ vỗ bụng: “Yếm sắt!”
Cố Quân tháo khăn che mắt, đeo kính lưu ly, sán lại cẩn thận xem xét kiệt tác của Cát Bàn Tiểu, trong lòng hết sức bái phục, cảm thấy mấy đứa con nít quỷ này bình thường ngoài chơi ra thì chẳng biết cái chó gì, nhưng lúc trước nhỏ như vậy đã quyết đoán rời Nhạn Hồi tiểu trấn theo Trường Canh lên kinh thành, trong bụng tuy chưa lắm mưu mô, song khẳng định rất lắm cách.
Cát Bàn Tiểu học thủ ngữ của Liễu Nhiên hòa thượng ra dấu nói: “Ai quy định chỉ có nữ mới được mặc yếm?”
Cố Quân bật ngón cái – nói đúng lắm!
Trường Canh: “…”
Trên bàn hai cái la bàn đối diện nhau xoay loạn xà ngầu, Cát Bàn Tiểu ra hiệu bảo hai người xem, dùng tay gõ nhẹ bàn, đưa ba ngón ra dấu – la bàn chí ít loạn ba ngày rồi.
Cố Quân thường xuyên đi ra ngoài, nhìn qua là hiểu, thầy phong thủy bình thường đi xa đều mang hai cái la bàn, nếu một trong hai mất hiệu lực, xem cái kia có thể biết là la bàn hỏng hay khu vực đó có vấn đề. Trên biển hoặc trong sa mạc thường xuyên có một số nơi có thể khiến la bàn mất hiệu lực, thuyền buôn và thuyền đánh cá bình thường đều tránh đi, mà đám người Đông Doanh này chẳng những không tránh né, còn cố ý đi vào, tuyến đường không hề nghi ngờ là đã lệch khỏi mục đích định trước.
“Đến từ mặt đất, đi tới Hao Lý”, “Hao Lý” này rốt cuộc ám chỉ cái gì?
Cát Bàn Tiểu: “May mà ta còn mang theo thứ này.”
Nói xong gã mở cái hộp nhỏ liên tục bốc khói trắng kia, chỉ thấy bên trong là một vật nho nhỏ cực tinh xảo, chính giữa có bánh xe be bé chuyển động nhanh chóng, liền với một trục, bên ngoài có vài vòng tròn vàng rực, góc khắc chữ “linh” theo kiểu chữ Triện, lại là xuất phẩm của Linh Xu viện.
“Đây là mẫu Linh Xu viện cho, lúc xoay thì trục này vĩnh viễn chỉ một phương hướng,” Cát Bàn Tiểu đưa tay chỉ, “Chính là cái này – nó chuẩn hơn la bàn, nhưng hao tử lưu kim, thành phẩm chưa ra mà nghe nói đã bị bên trên bác bỏ, ta với đại sư lén làm một cái, trước lúc đi đã lấy một bát tử lưu kim trên khôi lỗi hầu kiếm của đại ca.”
Cố Quân cẩn thận đưa tay bưng nó lên, vật này làm quá khéo léo, y chỉ sợ mình mạnh tay làm hỏng: “Thứ này nếu để Thẩm Dịch nhìn thấy, đủ để y lấy thân báo đáp đấy.”
Trường Canh nghe câu này mà ngực phát ngộp.
Cát Bàn Tiểu lại không biết kiếm từ đâu ra một tấm bản đồ da dê, nhăn nhúm trải lên bàn, đầu ngón tay ngắn tũn múa may bên trên một lúc lâu, cuối cùng dừng ở một điểm.
“Theo phương hướng này, ta và Liễu Nhiên đại sư suy đoán, chúng ta sẽ lập tức đến nơi này.”
Danh sách chương