Nhưng có vẻ như nhớ lại bài năm ngoái là không cần thiết, vì năm nay giáo sư Conner đã đem vào ngay một con quỷ lùn (imp) nhốt trong một chiếc lồng. Và cô đã +2 cho Ravenclaw vì Ive đã trả lời đúng đây là gì:
“Imp được tìm thấy ở Anh và Ireland, loài quỷ lùn này có khiếu hài hước và sẽ tự mua vui bằng cách đẩy và làm vấp ngã những người không cẩn thận. Chúng cũng thích ném bánh bích quy phù thủy hoặc các vật nhỏ khác vào bất kỳ ai mà chúng muốn hành hạ.”
“Rất tốt trò Parsons. Vậy có ai biết cách tốt nhất để giải quyết loài quỷ này là gì không?”
Nhìn còn quỷ nhỏ hơn con yêu tinh, da màu xám ngoét đầu trọc đang cười toe toét với bọn nhỏ, Giselle nhớ là có thể dùng Flipendo với chúng.
“Vâng trò Parsons?”
“Thưa cô, có thể ném bánh bích quy lại chúng hoặc dùng bùa ếm Flipendo ạ.”
“Tốt lắm, Ravenclaw +1 điểm. Vậy có ai có thể thực hiện Flipendo cho chúng ta xem được không?”
Dĩ nhiên là Matt giơ tay, Nol cũng giơ tay. Giselle không khỏi nhớ mọi người đã ấn tượng như thế nào khi thấy cậu nhóc dùng Flipendo ngay trên Tàu tốc hành Hogwarts năm ngoái.
“Tôi biết trò có thể làm được trò Burrows, nhưng lần này tôi muốn nhường sân khấu lại cho trò Rogers.”
Nol bất ngờ vì được trao cho cơ hội nhưng cậu nhóc cũng thực hiện ngon lành bùa Flipendo của mình. Năm trước giáo sư Hynkel đã dạy trong lớp Bùa chú rồi, rồi sau lần bị chặn đánh mà đám rắn dùng toàn Flipendo, có lẽ nhóc đã luyện tập chăm chỉ hơn.
“Tốt lắm, đó là một Flipendo tiêu chuẩn. +1 điểm cho Gryffindor.”
Bây giờ bà giáo mới đi đến lồng con quỷ lùn: “Các trò chuẩn bị hết chưa? Tôi sẽ thả con quỷ lùn ra. Xem các trò biết cách đối phó như thế nào nhé.”
Bọn nhỏ xôn xao khi con quỷ lùn sổ lồng, nó không biết bay nhưng nhanh nhẹn bù lại, bỗng nhiên nhảy phốc lên cái bàn học sinh gần nhất, chọi cục phấn vào đầu nhóc Douglas. Cậu nhỏ bất ngờ còn chưa rút kịp đũa phép, chỉ biết la oái một tiếng. Con quỷ lùn đạp lên vai Douglas lấy đà nhảy ra đằng sau, cầm phấn, bánh hay mấy cái nút, đá gì đấy chọi loạn xạ vào đám học trò.
Tụi nó loạn hết cả lên, rồi chạy lăng xăng sao đó bị con quỷ lùn đứng sau đẩy ngã. Cái phòng học loạn như cái chợ. Nhưng giáo sư Conner chỉ đứng nhìn, và bất ngờ chưa, bà cười với tình cảnh của tụi học trò.
Matt đánh ra Flipendo nhưng con quỷ lùn nhanh chân né sang chỗ khác, làm bùa ếm đó đánh trúng Douglas đẩy nó văng ra sau.
Nol đánh ra Flipendo thứ hai, vẫn trượt. Giờ tụi nó mới thấy mục tiêu thực tế nào có đứng im để chờ trúng bùa, gặp mấy con quỷ lùn hay yêu tinh, đợi đến khi niệm bùa ra thì chúng đã nhanh chân né đi chỗ khác hết rồi.
“Bao vây lại.” Giselle la lên, rồi vài đứa còn chưa nhảy loạn đứng vây lại vòng tròn, Matt đánh ra Flipendo tiếp, con quỷ né được nhưng Flipendo của Giselle niệm muộn hơn lại canh đúng chỗ nó né, nó trúng bùa loạng choạng ngã ra sau.
Matt với Nol cùng nhau bắt lại bỏ vào lồng cạnh giáo sư Conner.
Bà giáo nói khi đám nhỏ đã ổn định và ngồi lại vào chỗ:
“Tôi nghĩ các trò cũng đã hiểu được chỗ khác biệt giữa lý thuyết và thực hành. Dù các trò đã cùng nhau giải quyết được con Imp nhưng tôi cần lưu ý với các trò rằng, đó là do các trò lợi dụng quân số đông hơn và dĩ nhiên, Imp chỉ là loài quỷ hiền nhất trong số các sinh vật hắc ám. Cho nên tôi mong các trò chú trọng thực hành và đừng bao giờ mất cảnh giác với các sinh vật phép thuật.”
Giáo sư dạy phải quá. Giselle cũng thấy cả đám nhóc phù thủy cầm đũa phép mà bị con quỷ lùn phá sợ chạy xà quần thì đúng là tụi nó còn yếu thực hành quá, chẳng khác nào con nít Muggle.
Chiều thứ tư trống tiết, Giselle lại đi phòng thực hành số 4, sau đó đến phòng sinh hoạt của Ban liên lạc học sinh gốc Muggle. Ma mới năm nay có đến 15 đứa gốc Muggle, tụi nó cũng rụt rè sợ sệt như bọn cô năm trước. Nhưng sau khi gặp các anh chị có vẻ giống người bình thường thì đã đỡ sợ hơn.
Anh Rary Carolinus đã năm 7, nghĩa là năm nay sẽ có đợt bỏ phiếu bầu Phó Ban mới, bắt buộc mọi học sinh gốc Muggle phải tham gia. Hình như là sau lễ Giáng Sinh. Trước đó còn có một đợt để giới thiệu làm quen các ứng viên tranh cử.
Nhìn một vòng Giselle mới thấy mình chẳng quen biết ai trong đây cả, chỉ biết mỗi anh Carolinus chị Kara với quen mặt vài đứa Muggle đồng niên như Ive, Zorander mà thôi. Và bất ngờ chưa, anh Carolinus lại dặn tụi năm nhất:
“Tụi em chọc ai đừng chọc nhóm năm đứa Slytherin năm 2 nhé, tránh xa tụi nó còn hơn con ma Peeves nữa.”
Phản diện từ 3 nâng cấp thành 5 rồi. Nhìn bọn nhóc rụt rè này, Giselle bỗng như nhận ra, khoan, hình như không có học sinh gốc Muggle nào xuất thân từ gia đình giàu có cả.
Khoan, có gì đó sai sai.
Nhớ lại hết tất cả những đứa gốc Muggle mà cô biết, có vẻ như gia đình Gibson đã thuộc hàng khá giả nhất rồi. Cha mẹ Ive chắc cũng như ông bà Gibson, chị Kara có lẽ cũng thế, còn gia đình giàu hơn, giàu cỡ nhà bác Marshall thì không có.
Thật kỳ lạ. Không lẽ phép thuật cũng phân chia giàu nghèo? Là chọn trung lưu và thu nhập thấp chứ không chọn giàu có? Mà thật ra theo đánh giá của một người U40 mà nói, nhà bác Marshall cũng chỉ tiệm cận giàu mà thôi. Còn những gia đình thượng lưu, giàu nhiều đời ở Anh cũng đâu ít, sao không thấy có học sinh phù thủy ở Hogwarts vậy?
“Gibson, Gibson cậu đi thư viện hả?” Nhóc Zorander gọi theo làm cô giật mình, nãy giờ nghĩ lung tung, sinh hoạt Ban liên lạc học sinh gốc Muggle kết thúc lúc nào không hay.
“À ờ.” Vẫn chưa đến giờ ăn, cô định đi thư viện thật.
“Tớ cũng đi hướng đó, đi chung nhen.”
“À ờ.” Không, tôi muốn đi một mình cơ.
Nhưng thằng nhóc đã đi theo cùng làm cô không nghĩ đến vụ giàu nghèo được nữa, mà thật tâm cô cũng hơi nghi ngờ kết luận đó, mình lấy mẫu thống kê ít quá.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
“À Gibson...” nhưng thằng nhóc chưa kịp nói thì tụi nó đã bị con ma Peeves chọi mấy viên phấn vô đầu, nó còn phá hoại hơn con quỷ lùn hồi sáng nữa.
“Gibson đi với Zorander, ố ồ Zorander đi với Gibson.”
Nhóc Zorander hình như bị chọi phấn nhiều lần rồi hay sao đó, nó như thủ sẵn quyển sách bên người, che vội lên đầu:
“Thôi đi Peeves.” Cậu nhóc cầm sách quơ quơ đuổi con ma đi, chợt nắm lấy cổ tay Gibson kéo chạy: “Chạy nhanh Gibson! Peeves chọi phấn xong là chọi bóng tiếp đó.”
Theo quán tính cô cũng chạy theo ba bước rồi rụt tay về thì gặp ngay đám rắn từ đâu đi tới. Đường đến thư viện hôm nay gian nan quá...
“Nãy tao nghe con ma Peeves hát tao còn không tin.” Thằng nhóc Steffensen chế nhạo.
“Lúc trên tàu nghe Christi nói tao cũng không tin.” Nhóc Dietrichson cười mỉa.
“Amour, tu m'as tellement fait mal.” Một đứa trong cặp song sinh nói.
Nhóc Zorander định cãi lại nhưng không dám, bọn học sinh thà cãi với con ma Peeves còn hơn cãi với tụi này mà, Giselle né qua bên cho đám rắn đi, kêu nhóc nhà lửng: “Đi thôi Zorander, kệ tụi nó đi.”
Tới thư viện, cô lại chọn cái bàn khuất nhất của mình, bắt đầu viết lại suy nghĩ về giàu nghèo Muggle vào một tờ giấy da mới, sợ khi nào đó lại sẽ quên mất.
Sáng thứ năm là tiết Bùa chú cùng Hufflepuff. Giáo sư Hynkel mở đầu năm hai bằng một cái bùa mà nhóc Nol hứng thú vô cùng, đó là bùa chân nhảy (Dancing Feet Spell).
Bùa chân nhảy là bùa khiến chân của mục tiêu co giật dữ dội không kiểm soát được, khiến chúng trông như thể đang nhảy múa. Nó có tác dụng với cả mục tiêu sống và vô tri, miễn là mục tiêu có chân, chủ yếu được dùng để làm nhục nạn nhân.
“Tarantallegra.” Sau màn thể hiện ở lớp Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, nhóc Nol có vẻ mạnh dạn hơn với những màn vẫy đũa của mình. Cậu nhóc xung phong thực hành ếm bùa chân nhảy lên cái ghế bốn chân, và cái ghế thực sự co giật không kiểm soát.
“Tốt lắm trò Rogers. Nhưng đừng dùng nó để chơi khăm ai nhé.” Ông thầy dường như nhìn ra ý định của thằng nhóc.
Giselle nhìn cái ghế vẫn đang “nhảy”, nghĩ tại sao người ta lại phát minh ra một cái bùa kỳ khôi thế này để làm gì cơ chứ. Cô cho rằng nó nên được xếp vào nhóm Tạp bùa, chứ không phải dạy trong sách giáo khoa như thế này.
Tự nhủ không bao giờ dùng những bùa làm nhục đối thủ như vậy, khi đấu tay đôi thắng là thắng thua là thua chứ không thể làm nhục người khác được.
Sĩ khả sát bất khả nhục.
Chiều thứ năm trống tiết vì đã không còn môn bay, Giselle lại mò đi phòng thực hành rồi đóng cọc ở thư viện tới tận giờ ăn tối. Trên bàn, tụi nhỏ đang háo hức vì cả buổi chiều đã bay chổi quanh khắp sân trường, cũng phải thôi giờ ai cũng có chổi riêng rồi, biết bay là bay.
Ờ biết bay là bay, mình có biết bay đâu mà bay.
Matt Nol đang ôn luyện cho buổi tuyển thử vào thứ bảy tuần sau, nhiều anh chị nhà Gryffindor khác cũng đang chuẩn bị sẵn sàng.
Sang đến thứ sáu, vẫn là tiết lịch sử với giáo sư Eyler và vẫn như thường lệ, bà dạy bọn nhóc y hệt những gì trong sách.
Đến buổi chiều, câu lạc bộ chăm sóc sinh vật huyền bí lại tụ tập trước căn lều của chú Takumi. Gió từ Rừng Cấm thổi phất phơ mang theo mùi cỏ cây, không khỏi nhớ lại cái đêm bị bong gân ấy, chú Takumi bị bò cạp cắn bị thương, cô kích hoạt mắt Revelio ở bệnh xá.
Tụi anh Roy đã lên năm 6, chị Kara lên năm 3, mọi người nhìn Giselle vẫn bé tí không cao lên được tý nào đều cười trêu.
Chú Takumi từ trong lều đi ra, rồi dẫn bọn chúng đi vào Rừng Cấm, nhưng lần này không vào sâu như mấy lần bắt Puffskein năm trước, họ chỉ quanh quẩn ở ngoài rìa, nơi nuôi những con chim Jobberknoll của trường.
“Mấy con chim này giáo sư Abbott nuôi để dạy học sinh năm 6, giờ chúng thuộc tài sản của trường nên chúng ta phụ chăm sóc luôn.”
“Ý, vậy là năm nay tụi mình được học với tụi nó nè Patrick, Roy,” anh Owen hào hứng.
Cái chuồng quây dưới một gốc cây tán rộng, chỉ có bốn con chim ở đó, chúng nhỏ hơn cú mèo nhưng to hơn quạ, thân hình thon dài chứ không rộng bề ngang. Mấy con chim có lông vũ màu xanh lam bắt mắt, nhưng càng bắt mắt hơn là chiếc đuôi dài phía sau, mà Giselle hình dung như đuôi của chim công khi chưa xòe ra vậy. Bốn con Jobberknoll có tới ba màu lông đuôi, một đen, một vàng và hai con toàn xanh lam.
Phối màu xanh-vàng là ấn tượng nhất, nhìn sặc sỡ như mấy con chim bọn trẻ mẫu giáo Muggle hay tô tô vẽ vẽ vậy.
“Rồi, vậy có trò nào biết Jobberknoll có đặc điểm như thế nào không?” Chú Takumi lại lấy từ đâu ra mấy cái ca có tay cầm đựng thức ăn.
“Jobberknoll là loài chim không bao giờ phát ra tiếng động cho đến lúc chết. Người ta cho rằng tiếng hót trước khi c.h.ế.t của Jobberknoll là tua ngược lại của tất cả các tiếng động âm thanh mà con chim đó nghe được trong suốt cả cuộc đời.” Chị Kara đáp, say sưa ngắm nhìn mấy cái lông vũ xanh lam.
“Èo nghe kinh khủng thế, không biết tiếng hót cuối cùng của Jobberknoll có làm người ta phát điên như Fwooper không?” Anh Roy nói.
“Tớ mà nghe một lần hết những âm thanh từ lúc sinh ra đến giờ chắc tớ phát điên mất.” Anh Patrick lắc đầu.
“Không đến nỗi phát điên như tiếng hót của Fwooper,” người giữ vườn chia mấy cái ca đựng côn trùng, động vật nhỏ, ụn thức ăn như của tụi Puffskein cho năm đứa, “Nhưng các trò sẽ không thích nghe lời than khóc của một con vật trước khi c.h.ế.t lắm đâu.”
Thì nào có con vật gì có thể hát mừng Đảng mừng xuân trước đám tang của mình đâu, Giselle buồn bã nghĩ.
“Imp được tìm thấy ở Anh và Ireland, loài quỷ lùn này có khiếu hài hước và sẽ tự mua vui bằng cách đẩy và làm vấp ngã những người không cẩn thận. Chúng cũng thích ném bánh bích quy phù thủy hoặc các vật nhỏ khác vào bất kỳ ai mà chúng muốn hành hạ.”
“Rất tốt trò Parsons. Vậy có ai biết cách tốt nhất để giải quyết loài quỷ này là gì không?”
Nhìn còn quỷ nhỏ hơn con yêu tinh, da màu xám ngoét đầu trọc đang cười toe toét với bọn nhỏ, Giselle nhớ là có thể dùng Flipendo với chúng.
“Vâng trò Parsons?”
“Thưa cô, có thể ném bánh bích quy lại chúng hoặc dùng bùa ếm Flipendo ạ.”
“Tốt lắm, Ravenclaw +1 điểm. Vậy có ai có thể thực hiện Flipendo cho chúng ta xem được không?”
Dĩ nhiên là Matt giơ tay, Nol cũng giơ tay. Giselle không khỏi nhớ mọi người đã ấn tượng như thế nào khi thấy cậu nhóc dùng Flipendo ngay trên Tàu tốc hành Hogwarts năm ngoái.
“Tôi biết trò có thể làm được trò Burrows, nhưng lần này tôi muốn nhường sân khấu lại cho trò Rogers.”
Nol bất ngờ vì được trao cho cơ hội nhưng cậu nhóc cũng thực hiện ngon lành bùa Flipendo của mình. Năm trước giáo sư Hynkel đã dạy trong lớp Bùa chú rồi, rồi sau lần bị chặn đánh mà đám rắn dùng toàn Flipendo, có lẽ nhóc đã luyện tập chăm chỉ hơn.
“Tốt lắm, đó là một Flipendo tiêu chuẩn. +1 điểm cho Gryffindor.”
Bây giờ bà giáo mới đi đến lồng con quỷ lùn: “Các trò chuẩn bị hết chưa? Tôi sẽ thả con quỷ lùn ra. Xem các trò biết cách đối phó như thế nào nhé.”
Bọn nhỏ xôn xao khi con quỷ lùn sổ lồng, nó không biết bay nhưng nhanh nhẹn bù lại, bỗng nhiên nhảy phốc lên cái bàn học sinh gần nhất, chọi cục phấn vào đầu nhóc Douglas. Cậu nhỏ bất ngờ còn chưa rút kịp đũa phép, chỉ biết la oái một tiếng. Con quỷ lùn đạp lên vai Douglas lấy đà nhảy ra đằng sau, cầm phấn, bánh hay mấy cái nút, đá gì đấy chọi loạn xạ vào đám học trò.
Tụi nó loạn hết cả lên, rồi chạy lăng xăng sao đó bị con quỷ lùn đứng sau đẩy ngã. Cái phòng học loạn như cái chợ. Nhưng giáo sư Conner chỉ đứng nhìn, và bất ngờ chưa, bà cười với tình cảnh của tụi học trò.
Matt đánh ra Flipendo nhưng con quỷ lùn nhanh chân né sang chỗ khác, làm bùa ếm đó đánh trúng Douglas đẩy nó văng ra sau.
Nol đánh ra Flipendo thứ hai, vẫn trượt. Giờ tụi nó mới thấy mục tiêu thực tế nào có đứng im để chờ trúng bùa, gặp mấy con quỷ lùn hay yêu tinh, đợi đến khi niệm bùa ra thì chúng đã nhanh chân né đi chỗ khác hết rồi.
“Bao vây lại.” Giselle la lên, rồi vài đứa còn chưa nhảy loạn đứng vây lại vòng tròn, Matt đánh ra Flipendo tiếp, con quỷ né được nhưng Flipendo của Giselle niệm muộn hơn lại canh đúng chỗ nó né, nó trúng bùa loạng choạng ngã ra sau.
Matt với Nol cùng nhau bắt lại bỏ vào lồng cạnh giáo sư Conner.
Bà giáo nói khi đám nhỏ đã ổn định và ngồi lại vào chỗ:
“Tôi nghĩ các trò cũng đã hiểu được chỗ khác biệt giữa lý thuyết và thực hành. Dù các trò đã cùng nhau giải quyết được con Imp nhưng tôi cần lưu ý với các trò rằng, đó là do các trò lợi dụng quân số đông hơn và dĩ nhiên, Imp chỉ là loài quỷ hiền nhất trong số các sinh vật hắc ám. Cho nên tôi mong các trò chú trọng thực hành và đừng bao giờ mất cảnh giác với các sinh vật phép thuật.”
Giáo sư dạy phải quá. Giselle cũng thấy cả đám nhóc phù thủy cầm đũa phép mà bị con quỷ lùn phá sợ chạy xà quần thì đúng là tụi nó còn yếu thực hành quá, chẳng khác nào con nít Muggle.
Chiều thứ tư trống tiết, Giselle lại đi phòng thực hành số 4, sau đó đến phòng sinh hoạt của Ban liên lạc học sinh gốc Muggle. Ma mới năm nay có đến 15 đứa gốc Muggle, tụi nó cũng rụt rè sợ sệt như bọn cô năm trước. Nhưng sau khi gặp các anh chị có vẻ giống người bình thường thì đã đỡ sợ hơn.
Anh Rary Carolinus đã năm 7, nghĩa là năm nay sẽ có đợt bỏ phiếu bầu Phó Ban mới, bắt buộc mọi học sinh gốc Muggle phải tham gia. Hình như là sau lễ Giáng Sinh. Trước đó còn có một đợt để giới thiệu làm quen các ứng viên tranh cử.
Nhìn một vòng Giselle mới thấy mình chẳng quen biết ai trong đây cả, chỉ biết mỗi anh Carolinus chị Kara với quen mặt vài đứa Muggle đồng niên như Ive, Zorander mà thôi. Và bất ngờ chưa, anh Carolinus lại dặn tụi năm nhất:
“Tụi em chọc ai đừng chọc nhóm năm đứa Slytherin năm 2 nhé, tránh xa tụi nó còn hơn con ma Peeves nữa.”
Phản diện từ 3 nâng cấp thành 5 rồi. Nhìn bọn nhóc rụt rè này, Giselle bỗng như nhận ra, khoan, hình như không có học sinh gốc Muggle nào xuất thân từ gia đình giàu có cả.
Khoan, có gì đó sai sai.
Nhớ lại hết tất cả những đứa gốc Muggle mà cô biết, có vẻ như gia đình Gibson đã thuộc hàng khá giả nhất rồi. Cha mẹ Ive chắc cũng như ông bà Gibson, chị Kara có lẽ cũng thế, còn gia đình giàu hơn, giàu cỡ nhà bác Marshall thì không có.
Thật kỳ lạ. Không lẽ phép thuật cũng phân chia giàu nghèo? Là chọn trung lưu và thu nhập thấp chứ không chọn giàu có? Mà thật ra theo đánh giá của một người U40 mà nói, nhà bác Marshall cũng chỉ tiệm cận giàu mà thôi. Còn những gia đình thượng lưu, giàu nhiều đời ở Anh cũng đâu ít, sao không thấy có học sinh phù thủy ở Hogwarts vậy?
“Gibson, Gibson cậu đi thư viện hả?” Nhóc Zorander gọi theo làm cô giật mình, nãy giờ nghĩ lung tung, sinh hoạt Ban liên lạc học sinh gốc Muggle kết thúc lúc nào không hay.
“À ờ.” Vẫn chưa đến giờ ăn, cô định đi thư viện thật.
“Tớ cũng đi hướng đó, đi chung nhen.”
“À ờ.” Không, tôi muốn đi một mình cơ.
Nhưng thằng nhóc đã đi theo cùng làm cô không nghĩ đến vụ giàu nghèo được nữa, mà thật tâm cô cũng hơi nghi ngờ kết luận đó, mình lấy mẫu thống kê ít quá.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
“À Gibson...” nhưng thằng nhóc chưa kịp nói thì tụi nó đã bị con ma Peeves chọi mấy viên phấn vô đầu, nó còn phá hoại hơn con quỷ lùn hồi sáng nữa.
“Gibson đi với Zorander, ố ồ Zorander đi với Gibson.”
Nhóc Zorander hình như bị chọi phấn nhiều lần rồi hay sao đó, nó như thủ sẵn quyển sách bên người, che vội lên đầu:
“Thôi đi Peeves.” Cậu nhóc cầm sách quơ quơ đuổi con ma đi, chợt nắm lấy cổ tay Gibson kéo chạy: “Chạy nhanh Gibson! Peeves chọi phấn xong là chọi bóng tiếp đó.”
Theo quán tính cô cũng chạy theo ba bước rồi rụt tay về thì gặp ngay đám rắn từ đâu đi tới. Đường đến thư viện hôm nay gian nan quá...
“Nãy tao nghe con ma Peeves hát tao còn không tin.” Thằng nhóc Steffensen chế nhạo.
“Lúc trên tàu nghe Christi nói tao cũng không tin.” Nhóc Dietrichson cười mỉa.
“Amour, tu m'as tellement fait mal.” Một đứa trong cặp song sinh nói.
Nhóc Zorander định cãi lại nhưng không dám, bọn học sinh thà cãi với con ma Peeves còn hơn cãi với tụi này mà, Giselle né qua bên cho đám rắn đi, kêu nhóc nhà lửng: “Đi thôi Zorander, kệ tụi nó đi.”
Tới thư viện, cô lại chọn cái bàn khuất nhất của mình, bắt đầu viết lại suy nghĩ về giàu nghèo Muggle vào một tờ giấy da mới, sợ khi nào đó lại sẽ quên mất.
Sáng thứ năm là tiết Bùa chú cùng Hufflepuff. Giáo sư Hynkel mở đầu năm hai bằng một cái bùa mà nhóc Nol hứng thú vô cùng, đó là bùa chân nhảy (Dancing Feet Spell).
Bùa chân nhảy là bùa khiến chân của mục tiêu co giật dữ dội không kiểm soát được, khiến chúng trông như thể đang nhảy múa. Nó có tác dụng với cả mục tiêu sống và vô tri, miễn là mục tiêu có chân, chủ yếu được dùng để làm nhục nạn nhân.
“Tarantallegra.” Sau màn thể hiện ở lớp Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, nhóc Nol có vẻ mạnh dạn hơn với những màn vẫy đũa của mình. Cậu nhóc xung phong thực hành ếm bùa chân nhảy lên cái ghế bốn chân, và cái ghế thực sự co giật không kiểm soát.
“Tốt lắm trò Rogers. Nhưng đừng dùng nó để chơi khăm ai nhé.” Ông thầy dường như nhìn ra ý định của thằng nhóc.
Giselle nhìn cái ghế vẫn đang “nhảy”, nghĩ tại sao người ta lại phát minh ra một cái bùa kỳ khôi thế này để làm gì cơ chứ. Cô cho rằng nó nên được xếp vào nhóm Tạp bùa, chứ không phải dạy trong sách giáo khoa như thế này.
Tự nhủ không bao giờ dùng những bùa làm nhục đối thủ như vậy, khi đấu tay đôi thắng là thắng thua là thua chứ không thể làm nhục người khác được.
Sĩ khả sát bất khả nhục.
Chiều thứ năm trống tiết vì đã không còn môn bay, Giselle lại mò đi phòng thực hành rồi đóng cọc ở thư viện tới tận giờ ăn tối. Trên bàn, tụi nhỏ đang háo hức vì cả buổi chiều đã bay chổi quanh khắp sân trường, cũng phải thôi giờ ai cũng có chổi riêng rồi, biết bay là bay.
Ờ biết bay là bay, mình có biết bay đâu mà bay.
Matt Nol đang ôn luyện cho buổi tuyển thử vào thứ bảy tuần sau, nhiều anh chị nhà Gryffindor khác cũng đang chuẩn bị sẵn sàng.
Sang đến thứ sáu, vẫn là tiết lịch sử với giáo sư Eyler và vẫn như thường lệ, bà dạy bọn nhóc y hệt những gì trong sách.
Đến buổi chiều, câu lạc bộ chăm sóc sinh vật huyền bí lại tụ tập trước căn lều của chú Takumi. Gió từ Rừng Cấm thổi phất phơ mang theo mùi cỏ cây, không khỏi nhớ lại cái đêm bị bong gân ấy, chú Takumi bị bò cạp cắn bị thương, cô kích hoạt mắt Revelio ở bệnh xá.
Tụi anh Roy đã lên năm 6, chị Kara lên năm 3, mọi người nhìn Giselle vẫn bé tí không cao lên được tý nào đều cười trêu.
Chú Takumi từ trong lều đi ra, rồi dẫn bọn chúng đi vào Rừng Cấm, nhưng lần này không vào sâu như mấy lần bắt Puffskein năm trước, họ chỉ quanh quẩn ở ngoài rìa, nơi nuôi những con chim Jobberknoll của trường.
“Mấy con chim này giáo sư Abbott nuôi để dạy học sinh năm 6, giờ chúng thuộc tài sản của trường nên chúng ta phụ chăm sóc luôn.”
“Ý, vậy là năm nay tụi mình được học với tụi nó nè Patrick, Roy,” anh Owen hào hứng.
Cái chuồng quây dưới một gốc cây tán rộng, chỉ có bốn con chim ở đó, chúng nhỏ hơn cú mèo nhưng to hơn quạ, thân hình thon dài chứ không rộng bề ngang. Mấy con chim có lông vũ màu xanh lam bắt mắt, nhưng càng bắt mắt hơn là chiếc đuôi dài phía sau, mà Giselle hình dung như đuôi của chim công khi chưa xòe ra vậy. Bốn con Jobberknoll có tới ba màu lông đuôi, một đen, một vàng và hai con toàn xanh lam.
Phối màu xanh-vàng là ấn tượng nhất, nhìn sặc sỡ như mấy con chim bọn trẻ mẫu giáo Muggle hay tô tô vẽ vẽ vậy.
“Rồi, vậy có trò nào biết Jobberknoll có đặc điểm như thế nào không?” Chú Takumi lại lấy từ đâu ra mấy cái ca có tay cầm đựng thức ăn.
“Jobberknoll là loài chim không bao giờ phát ra tiếng động cho đến lúc chết. Người ta cho rằng tiếng hót trước khi c.h.ế.t của Jobberknoll là tua ngược lại của tất cả các tiếng động âm thanh mà con chim đó nghe được trong suốt cả cuộc đời.” Chị Kara đáp, say sưa ngắm nhìn mấy cái lông vũ xanh lam.
“Èo nghe kinh khủng thế, không biết tiếng hót cuối cùng của Jobberknoll có làm người ta phát điên như Fwooper không?” Anh Roy nói.
“Tớ mà nghe một lần hết những âm thanh từ lúc sinh ra đến giờ chắc tớ phát điên mất.” Anh Patrick lắc đầu.
“Không đến nỗi phát điên như tiếng hót của Fwooper,” người giữ vườn chia mấy cái ca đựng côn trùng, động vật nhỏ, ụn thức ăn như của tụi Puffskein cho năm đứa, “Nhưng các trò sẽ không thích nghe lời than khóc của một con vật trước khi c.h.ế.t lắm đâu.”
Thì nào có con vật gì có thể hát mừng Đảng mừng xuân trước đám tang của mình đâu, Giselle buồn bã nghĩ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Truyện Hot Mới
Danh sách chương