Buổi chia sẻ diễn ra thuận lợi hơn ông Gibson tưởng, đến cuối cùng, ông còn được hai nhà khoa học đến từ một phòng lab được Bộ Quốc phòng Mỹ rót vốn xin gặp mặt riêng để trao đổi thêm. Trong lúc chờ ông, ba má con đi một vòng tham quan đại học W, dù khá bất tiện vì trời vẫn còn mưa to.
Dân Seattle nếu có ai yêu thích cơn mưa giữa tháng 7 này thì chắc hẳn là đám sinh viên, những chàng trai cô gái bằng tuổi Harris đang thích thú tắm mưa trên bãi cỏ rộng lớn của khuôn viên trường. Trong khi đó, bà Matilda Gibson đứng bên mái hiên, lắc đầu ngán ngẩm: “Thật không hiểu thanh niên ngày nay nghĩ gì.” Bà nói thế thôi chứ rõ ràng là bà biết ông con trai đứng cạnh bà nghĩ gì, anh Harris cũng đang muốn ào ra chơi cùng mấy cô nàng mặc đồ bơi tắm mưa ngoài kia.
“Con lo mà làm gương cho em con đấy. Đừng để Selly bắt chước dầm mưa rồi cảm sốt nhé!” Bà luôn lo cho cô con gái nhỏ có vẻ yếu ớt và mẫn cảm với thời tiết. 
“Con lớn rồi mà má! Con không tắm mưa đâu.” Nhất là với mấy cơn mưa bất chợt thế này, như kiếp trước hay dùng từ gì nhỉ, “mưa độc” lắm.
“Má nói như thể con toàn làm gương xấu cho Selly không vậy. Trong mắt má con không có tính tốt nào sao.” Harris trả treo, nhưng vẫn nhớ trách nhiệm làm gương cho em mình nên đành tiếc nuối lỡ dịp nói chuyện với mấy cô gái xinh như người mẫu dưới làn mưa.
Trời tạnh cũng là lúc cả nhà bốn người tạm biệt ngôi trường mang đậm hơi thở thanh xuân này. Đâu đó trên TV vẫn phát tiếng của bình luận viên thời tiết giải thích rằng do hiệu ứng nóng lên toàn cầu.
Bà Gibson có vẻ khá đồng ý với lý do này: “Cũng phải thôi! Chỉ riêng cái thành phố này là đã thải ra biết bao nhiêu khói bụi rồi. Rồi cũng như sương mù London thôi, thích thì xuất hiện chẳng thể dự đoán nổi đâu.”
Sau khi tuyên dấu chấm hết cho nghề dự báo thời tiết, bà quay sang chồng: “Ôi anh Hanz ơi, em bắt đầu nhớ Little Clifton rồi.”
“Đúng là người già, mới đi xa có mấy ngày mà má. Mình còn chưa chơi hết.”
“Ôi vui lên nào em. Đâu phải lúc nào cũng có dịp du lịch dài ngày thế này. Tối nay chúng ta cần ăn mừng một phen.”
Họ về đến phòng khách sạn, Giselle cởi áo khoác mắc lên giá, lấy ra đũa phép giắt ở trong người ra để bên cạnh - cô luôn để đũa trong người, không bao giờ để ngoài áo khoác. Rồi mới lấy ví tiền từ trong túi áo phải ra.
Đang định xoay người thay quần áo thì... Khoan đã... Áo khoác vẫn nặng hơn bình thường... Còn gì đó trong áo nhỉ?
Túi phải trống không, cô lần mò trong túi trái, nơi vốn trống không giờ đây lại có vật gì nằm đó.
Lấy ra, đó là một cái trứng nhỏ xíu, nom chưa bằng một nửa quả trứng gà, màu sữa đục, cầm nhẹ tênh. Có lẽ vì nhẹ vậy mà cô mới không để ý trong túi mình có thêm gì đó trên suốt quãng đường đi.
Vẫn cầm cái trứng trên tay, đặt m.ô.n.g ngồi xuống giường, Giselle lại thở dài một hơi. Tại sao đi đâu cũng có chuyện? Qua Seattle bốn ngày thôi mà cũng phải dây vào chuyện gì đó.
“Selly ơi xong chưa con, chuẩn bị đi thôi.” Tiếng bà Gibson giục ngoài cửa. “Sắp xong rồi má.” Cô nhanh thay quần áo, cất lại đũa phép vào người, khoác một cái áo khác, lại bỏ ví tiền và cái trứng lạ vào túi áo phải.
Nhưng bữa ăn tối diễn ra không mấy suôn sẻ vì bốn du khách Anh không bắt được chiếc xe taxi nào để đi đến nhà hàng. Tiếng còi xe cảnh sát và xe chữa cháy hú inh ỏi lướt qua các tuyến phố, hàng dài oto cá nhân và taxi ôm sát đ.í.t nhau trên đường, tình trạng tắc nghẽn còn đáng sợ hơn ban ngày. Người dân nơi đây có vẻ đã quá quen với điều đó, dòng người đi bộ tất bật, vừa đi vừa nói chuyện, bàn công việc, cãi nhau qua điện thoại inh ỏi.
“Giờ này không bắt được taxi đâu, tôi khuyên ông bà nên đi bộ thì hơn. Có ba vụ nổ ống dẫn khí gas trong thành phố, rồi đâu đó dưới Belltown đang bị cháy nữa. Cái ngày xui xẻo gì thế này.” Người Doorman của khách sạn lắc đầu ngán ngẩm.
Hết hứng thú tham quan thành phố về đêm, bốn người quay lên nhà hàng của khách sạn, nhưng hóa ra đồ ăn không đến nỗi tệ. Để chúc mừng, ông Gibson còn phá lệ gọi thêm mấy chai bia dù bình thường ông kiên quyết phải đối đồ uống có cồn.
Đến cuối cùng, ông Gibson và Harris còn chè chén say khước đến độ chân nam đá chân chiêu, bà Gibson phải nhờ đến nhân viên phục vụ khách sạn mới khuân hai cái thân xác nặng trịch về phòng được.
“Cả cha cả con! Uống say bét nhè! Thế mà cứ bảo phải làm gương cho con cái!”
Tuy càu nhàu nhưng thật lòng bà cũng mừng vì thành quả bao năm nghiên cứu của chồng ít nhiều đã được công nhận, còn thêm vui vì đứa con trai đã thôi chống đối ba má nó. Ấy thế mà trong bữa tiệc tối nay, bà cũng uống vài ly và bắt đầu thấy lâng lâng.
Thay xong quần áo cho chồng con, bà khóa cửa, nhắc đứa con gái đang ngồi chơi ngoài sofa ngủ sớm, rồi cũng nhanh đặt lưng lên giường. Ba ngày đi tham quan cái thành phố đông đúc này rút kiệt sức bà.
Nhưng với một đứa mất ngủ triền miên như Giselle thì buổi tối mới chỉ bắt đầu. Cô kiểm tra các khóa cửa một lần nữa, sau đó tắt đèn, để bóng tối chiếm dần căn phòng. Vẫn có ánh sáng hắt ra từ các đồ vật dạ quang, cũng như ánh sáng của bầu trời đầy sao ngoài kia hắt vào cửa sổ. 
Giselle mới từ từ thở ra, thành phố đông đúc làm cô nghẹt thở, âm thanh thành thị làm đầu cô ong ong, và hơn hết, sự thiếu hụt nguyên tố pháp thuật nơi đây làm cô bất an.
Đã quá quen với một ngôi trường phù thủy cổ lão với những nguyên tố pháp thuật bay đầy trong không khí, hay ở căn nhà Little Clifton dù nguyên tố ít hơn nhưng vẫn có. Còn nơi thành phố này, nguyên tố pháp thuật ít ỏi dường như đã bị ăn mòn bởi khói bụi xe cộ và sự tất bật của dân Muggle.
Xét cho cùng, phù thủy không cần phải có nguyên tố mới có thể làm phép, cũng không cần phải ở nơi có sung túc nguyên tố mới có thể tạo ra những bùa chú hùng mạnh. Thực tế mà nói, dường như chỉ có mình Giselle mới nhìn và cảm thấy những nguyên tố này, kể từ sau cái đêm “gạt cần” ở bệnh xá đó.
Nhưng vì cô nhìn và cảm nhận thấy chúng, cô mới thấy không vui khi phải ở trong môi trường thiếu hụt như vậy.
Thôi không nghĩ linh tinh nữa, dù gì mai mình cũng về rồi. Tập trung vào chuyện chính, cô lấy đũa phép ra để lên bàn, lấy quả trứng tí hon kia ra, hít sâu tập trung tinh thần, dồn ma lực bản nguyên vào mắt trái.
Chỉ thấy con ngươi vốn màu nâu sẫm đó bỗng hóa thành màu xanh như ngọc mắt mèo, ma mị đến nỗi khó mà dám nhìn thẳng. Cái trứng qua con mắt Revelio bỗng hiện ra hàng hà sa số nguyên tố ma pháp bám quanh vỏ trứng, nhiều đến nỗi Giselle như có cảm tưởng tất cả nguyên tố ở Seattle cộng lại cũng không bằng nơi vỏ trứng này. Chính giữa trứng có một đốm lửa nhỏ hệt như ma pháp bản nguyên trong người Giselle. Và khi cô nhìn vào đốm lửa bé xíu xiu đó, nó như có cảm ứng mà bập bùng lên.
Đây sẽ là một sinh vật pháp thuật đầy quyền năng.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

Nhưng ai lại đem cái trứng quý giá này bỏ vào túi cô chứ? Các sinh vật huyền bí đều chịu sự kiểm soát gắt gao của Bộ Pháp thuật, lẽ dĩ nhiên nó chẳng thể từ Cục Kiểm soát Sinh vật Huyền bí bay thẳng vào túi mình được.
Giselle nhớ lại chặng đường sáng nay, chỉ có thể đoán là lúc cô bị đúng trúng dưới cơn mưa tầm tã trước cửa hàng bán ô, có ai đó thừa dịp mà bỏ cái trứng vào trong túi áo.
Nhưng tại sao chứ.
Khoan. Khoan đã. Có đốm lửa chuyển động ngoài kia. Có phù thủy lén lút ngoài phòng khách sạn của nhà Gibson.
Giselle chỉ kịp thu hồi mắt Revelio, chộp lấy đũa phép trên bàn, tay trái cầm chặt cái trứng. Và rồi khóa cửa cạch một tiếng. Không biết có phải Alohomora không, nếu người ngoài kia sử dụng bùa mở khóa thì Bộ Pháp thuật Mỹ chắc hẳn sẽ phát hiện ra. Không rõ họ có biết là có ai đó khác không phải cô không, hay họ lại cho rằng là cô phù thủy nhí nghịch ngợm không tuân thủ luật.
Cánh cửa bật mở, hành lang phía ngoài tối đen như mực, chắc đã bị ếm phép tắt sáng hết rồi. Nếu vậy thì Bộ Pháp thuật phải biết rồi chứ, phải có động thái gì đó rồi chứ? Hay là người đó không sử dụng bùa chú từ đũa phép mà là một vật phẩm phép thuật khác?
Có lẽ là đáp án thứ hai. Bởi vì người ngoài cửa nói thầm: “Tối quá, bật sáng lên đi Zylbalar.”
Vậy là không phải một người. Nhưng khi nãy cô chỉ nhìn thấy một đốm lửa, là ai khác không có ma lực bản nguyên, hay là ngoại lệ đối với mắt Revelio?
Mình chưa thử nhiều, đã rõ cách hoạt động của mắt Revelio đâu? Đừng vội đi đến kết luận.
Trong khi suy nghĩ chạy nhanh trong đầu, chỉ nghe tiếng thứ hai lầm bầm gì đó, rồi tạch một tiếng, đèn trong phòng khách sáng lên, soi rõ hai người, à không một người và một con yêu tinh bất ngờ đứng nhìn cô bé đang ngồi trên sofa.
Cô bé chừng 12 13 tuổi đó lên tiếng trước: “Cháu sẽ làm phép để Bộ Pháp thuật biết đó.”
“Ấy ấy đừng đừng,” người đàn ông râu ria xồm xàm, ăn mặc lôi thôi lếch thếch vội nói: “Chúng ta không có ý xấu.”
“Nếu hai người không có ý xấu tại sao lại đột nhập lúc nửa đêm thế này? Lúc ba má và anh cháu đều ngủ hết rồi?” 
Hỏi là thế chứ cô nghĩ ba người nhà Giselle đã bị ếm hoặc bỏ thuốc vào mấy ly bia mới bỗng nhiên say xỉn li bì như thế. Đáng lý ra cô chẳng nghi ngờ gì, nhưng thấy hai người này vào đây bỗng mọi chuyện đ.â.m ra đáng nghi. Có lẽ mấy ly bia đã bị cho thuốc ngủ, như con ch.ó hai đầu ở thư viện vậy.
Mình vẫn thiếu cảnh giác quá.
“Này cô bé, đừng giả vờ đe dọa bọn ta. Chúng ta sẽ lấy được thứ bọn ta muốn trước khi mấy tay chân của Bộ kịp đến nơi này đó.” Con yêu tinh nói, nó từ tốn bước vào phòng, giọng khò khè như mấy con yêu tinh ở Gringotts nhưng ăn mặc lôi thôi hơn nhiều.
“Nhưng mấy ông cũng sẽ bị lộ tẩy, cháu nghĩ ông không chạy xa được nếu bị phát hiện đâu.”
Con yêu có vẻ bực tức vì bị một con bé loài người dọa dẫm: “Đừng nói chuyện với ta bằng giọng điệu đấy, con bé loài người ngu ngốc.”
“Zylbalar bình tĩnh, bình tĩnh. Ông đang làm cô bé sợ đó.” Râu ria xồm xàm can, ông bước đến ngoài vào sofa đối diện Giselle, tự rót cho mình tách nước bằng cái phích trên bàn, uống ừng ực như thể c.h.ế.t khát đến nơi.
“Vậy mấy ông là ai?”
“Mi không cần biết bọn ta là ai, đưa cái trứng đây và bọn ta sẽ đi ngay.” Con yêu đe dọa.
“Cái này tự nhiên rơi vào trong túi cháu...”
“Vì thế nó không phải của mi, mi nên trả lại cho chủ nó.” 
“Sao cháu biết nó là của ông được? Mà tại sao cháu phải trả lại khi tự nhiên nó rơi vào túi cháu?” Cô cố nói theo kiểu giọng điệu khó ưa của bọn con nít.
Quả nhiên con yêu tinh phát bực, nó giơ bàn tay phải với mấy ngón tay dài ngoằm xấu xí ra định làm động tác gì đó, thì râu ria xồm xàm từ ghế chồm tới bắt cái tay đó lại: 
“Zylbalar ông manh động quá! Làm vậy chỉ tổ đưa mấy tay ở Bộ đến mà thôi, chúng ta tốn biết bao nhiêu công sức mới cắt đuôi được bọn chúng.”
“Con nít ranh! Nó dám nói như thế với tao.”
“Ông im lặng chút đi, để tôi nói chuyện với cô bé.” Rồi kẻ râu ria nói bằng giọng dỗ dành con nít: “Cháu bé à, đừng làm tính tình như vậy. Cháu nên hiểu mình chỉ là phù thủy vị thành niên, còn bọn ta đây là phù thủy trưởng thành. Hơn nữa người thân No-Maj của cháu còn đang ngủ li bì trong phòng kia.”
“Ông đã làm gì cha mẹ và anh cháu?” Tỏ vẻ giật mình, cô lại quơ quơ đũa phép: “Không được cháu phải báo cho Bộ biết...”
“Ấy đừng, họ chỉ ngủ hơi sâu vì uống phải chút thuốc ngủ thôi, sáng mai sẽ tỉnh dậy bình thường, đừng manh động...”
Quả nhiên.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện