(Giải thích tựa chương: Ở Kiến Nghiệp, nhóc cà lăm ổn định lòng quân…)
Quân của Lưu Bị hạ trại ở Tây thành, Lã Bố ở trong phủ thành Kiến Nghiệp.
Sau khi ăn xong, Kỳ Lân thay quần áo, đi ra khỏi phủ. Trong thành Kiến Nghiệp nhà nhà đã lên đèn, binh doanh ngoài thành đuốc mọc như rừng, quân Lương Châu bên phải, quân Hán Nam bên trái, đối diện xa xa.
Lưu Bị thống lĩnh quân Hán Nam mặt mày bụi băm, ăn nhờ ở đậu, trong có vẻ bồn chồn lo lắng.
Quân Lương Châu thì lớn tiếng huyên náo, ăn thịt uống rượu nho, đèn đuốc sáng trưng.
“Quân sư đến–”
“Quân sư uống rượu!”
Kỳ Lân xua tay nói: “Các ngươi uống đi, nghỉ ngơi sớm.” Dứt lời đi sang quân doanh Hán Nam.
Sao đầy trời, một khúc đàn cổ xa xa truyền lại, bên bờ sông, sóng đánh dập dìu.
Kỳ Lân đứng trên một chỗ cao, Chu Du ngừng đánh đàn, cô đơn nói: “Cảm ơn ngươi đến tương trợ, Kỳ Lân.”
Kỳ Lân thở dài, ngồi xuống cạnh Chu Du, cùng hắn nhìn mặt sông: “Đây là quyết định của Phụng Tiên, đừng khách sáo. Tiếp theo ngươi có kế hoạch gì không?”
Chu Du trầm ngâm, nhẹ khảy dây đàn, hỏi: “Ngươi cảm thấy chúng ta có thể thắng không?”
Kỳ Lân: “Có thể, giống như ta biết Tôn lang sẽ chết, ta cũng biết, trận này, nhất định sẽ thắng.”
Chu Du chầm chậm nói: “Bảy năm trước, lúc ở Đan Dương ngươi từng nói qua; Ngày nào đó, Lưu Bị sẽ mang cả nhà đến nương tựa Trọng Mưu. Lúc đó, ta vô cùng kinh hãi, vốn muốn hỏi ngươi, sao không phải nhờ Tôn lang mà lại nhờ Trọng Mưu.”
Kỳ Lân thở dài: “Mệnh trời khó cãi, ta thay đổi quá trình mà không đổi được kết cục.”
Chu Du nói: “Hôm nay thiếu kiềm chế, để ngươi chê cười.”
“Khi tình cảm quá nhiều, tự nhiên sẽ biểu hiện ra thôi, Đô Đốc chí tình chí nghĩa, sao lại nói là thiếu kiềm chế?” Tiếng nói của Gia Cát Lượng vang lên phía sau hai người.
Chu Du mỉm cười có lệ, đẩy đàn ra, đứng dậy nói: “Trước tạm bỏ qua thiên mệnh đi, ta có một chuyện muốn thỉnh giáo, trận chiến này vì sao có thể thắng?”
Kỳ Lân thản nhiên nói: “Tào quân có đường lui, ta thì không; Chúng ta là chủ, Tào Tháo là khách; Thiên mệnh ở ta, không ở Tào, nên trận này tất thắng.”
Gia Cát Lượng gật đầu nói: “Lòng người hướng về đâu, thiên mệnh ở đó.”
Hình như Chu Du có hơi phiền muộn, lát sau mới nói: “Đã khuya rồi, mời hai vị quân sư về nghỉ ngơi, ngày mai lại bàn cặn kẽ chiến trình.”
Gia Cát Lượng nói: “Mời Đô đốc.”
Chu Du chắp tay chào, leo xuống dốc rời đi, khi người đã đi được xa xa rồi, đột nhiên Gia Cát Lượng lên tiếng: “Khích tướng, hâm dọa đều không bằng một câu của tiên sinh.”
Kỳ Lân tự nhiên nói: “Hắn chỉ muốn ta đến nói cho hắn nghe về thiên mệnh, nếu có nói với hắn trận này tất bại, có lẽ hắn cũng sẽ xuất lĩnh toàn bộ Giang Đông liều chết một trận, mời quân sư.”
Gia Cát Lương cùng Kỳ Lân leo xuống, Gia Cát Lượng vui vẻ mời: “Nếu tiên sinh đồng ý, mời đến doanh ta ngồi chơi?”
Kỳ Lân hơi suy nghĩ: “Cũng được.”
Đang nói, chợt thấy một người đứng dưới sườn dốc, là Trương Cáp phe mình.
“Chuyện gì thế?” Kỳ Lân hỏi.
Trương Cáp có vẻ hơi do dự, đánh giá Gia Cát Lượng rồi mới đáp: “Chủ công tỉnh rượu rồi, phái ta ra ngoài tìm ngươi.”
Kỳ Lân đáp: “Về nói với Phụng Tiên ta có chút việc lát mới về.”
Gia Cát Lượng: “Mời.”
Kỳ Lân cũng mời, Trương Cáp không về mà giữ khoảng cách đi theo phía sau, trong doanh Hán Nam, khắp nơi la liệt tướng sĩ mỏi mệt. Kỳ Lân mở lời: “Để ta bảo Mã Siêu đưa sang ít rượu, cho các ngươi nâng cao tinh thần.”
Gia Cát Lượng phe phẩy quạt lông, cười nói: “Đối đầu với kẻ địch mạnh không nên uống rượu. Tiên sinh là người phóng khoáng, nhưng ngặt nỗi chủ công ra lệnh quá sức nghiêm, chỉ có thể nhận lòng tốt của tiên sinh.”
Kỳ Lân chợt vui vẻ gọi: “Tử Long!”
Trước lều, Triệu Tử Long đang nhấc hai bên nách A Đẩu, cẩn thận đặt đứa trẻ còn chưa đầy năm ngồi xuống cái ghế gỗ đối diện với mình, nghe tiếng đứng dậy: “Kỳ Lân?”
“Chủ công đang có khách à?” Khổng Minh hỏi.
Triệu Vân nói: “Chủ công đang nói chuyện với sứ giả của đất Thục trong lều. Mời tiên sinh và quân sư chờ một chút.”
Khổng Minh lại nói: “Coi chừng gió lớn cảm lạnh.”
Triệu Vân mỉm cười, đáp: “Không sao, mặc dày lắm.”
Kỳ Lân để ý đến hai chữ đất Thụ. Trong lịch sử, để móc nối với Lưu Bị, Trương Tùng dâng bản đồ Ích Châu, lẽ nào người bán lãnh địa của Lưu Chương là Trương Tùng? Trên tay Triệu Vân cầm con hổ vải, để nó đi tới đi lui trước ghế gỗ của A Đẩu, A Đẩu xem rất vui, cười thành tiếng.
Kỳ Lân hỏi: “Đầu A Đẩu bị làm sao thế?”
Triệu Vân đáp: “Va đầu, nam tử hán đại trượng phu, bị thương mới mau lớn, không cần để ý, đúng không, A Đẩu.”
Trên trán A Đẩu có vết thương nhỏ, không cần hỏi cũng biết là do Lưu Bị ném, đang với tay theo hổ nhỏ trong tay Triệu Vân.
Kỳ Lân vuốt vuốt tay lên trán A Đẩu, dùng tiên lực tiêu bầm, Triệu Vân thở phào, vô cùng cảm kích, cười nói: “Không sợ bị phá tướng…”
Kỳ Lân chế nhạo: “Bày đặt mạnh miệng nữa thôi? Đau lòng muốn chết.”
A Đẩu nắm được con hổ vải kéo kéo, Triệu Vân cười thả lòng tay, cho nó, lại nói với Kỳ Lân: “Ai cũng nói ngươi hiểu thiên cơ, ngươi xem tướng mạng cho hắn thử, xem sau này số mệnh tiểu chủ công thế nào?”
Đột nhiên, Trương Cáp lên tiếng: “Nghe đồn… A Đẩu vô dụng?”
Một câu này làm mặt ai cũng đen thui, Kỳ Lân chợt nhớ đây là câu nói chính mình truyền bá, nên lúc này càng vô cùng xấu hổ.
May mắn có Gia Cát Lượng xoay chuyển tình hình: “Nếu mệnh phạm vào cô sát, Tử Long có bỏ mặc được không?”
Triệu Tử Long hiểu ý, cười đáp: “Tử Long nhiều chuyện, dù có thế nào cũng liều chết che chở, tướng mạng gì đó đều không có thật, vốn chẳng có số mệnh gì cả, không cần để ý, tương lai tiểu chủ công chắc chắn có thể trở thành một đại tài.”
Gia Cát Lượng gật đầu cười: “Chính là như vậy.” Nói xong thì thôi, tự mình đi qua tìm chỗ ngồi xuống.
Kỳ Lân tự nhiên hỏi: “Vốn tưởng rằng Lưu Bị sẽ sửa tên cho con trai, sao vẫn còn gọi A Đẩu.” Vừa nói vừa ôm A Đẩu lên lắc trái lắc phải, A Đẩu phun mưa trong miệng.
Triệu Tử Long nói: “Lúc chủ mẫu sắp sinh có nằm mơ, thấy ánh sáng lộng lẫy bao phủ bầu trời, Thiên Cương Bắc Đẩu bay liệng về hướng Đông Bắc, rồi giáng xuống lều, ngay sau đó sinh ra tiểu chủ công.”
Kỳ Lân hỏi lại: “Mơ thấy Thiên Cương Bắc Đẩu, nên mới đặt nhủ danh là A Đẩu sao?”
Triệu Vân gật đầu: “Ngày đó Thủy Kính tiên sinh đúng dịp đến Tân Dã làm khách, có đàm luận về điềm lành “Chân đạp thất tinh.”
Kỳ Lân rất đỗi ngạc nhiên: “Chân đạp thất tinh à? Đấy chẳng phải là tướng mệnh của vương hầu đế trụ sao?”
Kỳ Lâm lẩm bẩm: “Mọc răng chưa đây? Miệng bé xíu à.” Đầu ngón tay chọt chọt miệng A Đẩu, cố chen vào trong, A Đẩu chỉ có lợi chưa mọc răng, bị ngón tay chọt chọt vào trong miệng, lập tức ngậm chặt miệng dùng lợi cắn lên đầu ngón tay Kỳ Lân.
“Ai ui…” Kỳ Lân bị cắn la làng la xóm.
“A Đẩu, đừng có nghịch!” Triệu Vân vội bóp miệng A Đẩu dụ nó mở miệng ra.
Triệu Vân nói: “Để ta vào trong lều xem, chủ công…”
Kỳ Lân từ chối: “Không cần đâu, ta chỉ đến thăm A Đẩu thôi, đi ngay đây.”
Gia Cát Lượng đang ngồi gần đó, nhìn rất thảnh thơi, nghe vậy hỏi: “Về liền à?”
Kỳ Lân lấy kim châu đeo trên cổ xuống, rút dây, tháo hai cái nanh sói do Lã Bố tặng ra, đưa cho A Đẩu, hai bàn tay nhỏ của A Đẩu mỗi bên cầm một cái, bi bô lắc lắc.
Kỳ Lân cười nói: “Dù sao ngươi cũng có Tử Long rồi… Món đồ chơi này xem như thế thân của Phụng Tiên nhé, bồi thường cho ngươi đấy(1).”
Triệu Vân nhìn A Đẩu bé nhỏ một hồi, đôi mắt tự nhiên ửng đỏ, xoa xoa đầu A Đẩu, dịu dàng hôn lên trán nó.
Hôm sau, sau khi dùng điểm tâm xong, Kỳ Lân bước liêu xiêu, lim dim buồn ngủ theo Lã Bố ra khỏi thành, tuần doanh.
“Sau này ngươi đừng uống nhiều quá… Có rượu vào rồi cứ như sư tử ấy.” Kỳ Lân bất mãn phê bình.
Lã Bố: “Ồ, ngươi từng bị sư tử chịch rồi à?”
Kỳ Lân: “…”
Trong nắng sớm, chư tướng trong quân doanh nghe tin chủ công đến, đều ra ngoài xếp hàng, Lã Bố chỉ nhìn lướt qua, nói: “Ừm, thôi, hôm nay tâm tình quân sư không được tốt lắm, mọi người nghỉ ngơi đi.”
Chúng tướng hô: “Chủ công uy vũ—”
Đối diện với cửa quân doanh, Lưu Bị đang đứng quay lưng về phía này, lớn tiếng răn dạy chúng ái tướng dưới trướng.
“Tinh thần yếu đuối, thôi lôi lếch thếch, hành quân chắc chắn thất bại! Các ngươi đang làm gì thế! Xốc vác lên!” Lưu Bị răn dạy người khác không giống như người hay dùng ‘bom cay’(2) thường ngày, cũng ra hình ra dạng lắm.
“Xem mà học tập.” Kỳ Lân xoay đầu Lã Bố, để hắn chuyển hướng đối diện với đại doanh quân Hán Nam, xem Lưu Bị dạy người của hắn thế nào.
Lưu Bị vẫn chưa biết bên quân doanh đối diện đang chăm chú quan sát mình, bất chợt đổi giọng, lệ rơi lã chã:
“Nay chúng ta đang thời kỳ nguy nan, nếu không phấn chấn kiên cường, làm sao dám nhắc chuyện thiên hạ! Bàn luận trăm họ–!”
Lưu Bị thấy nhóm Liêu Hóa, Quan Vũ nhìn về quân doanh đối diện, suy nghĩ nhanh. Chính hắn cũng không quay đầu, chỉ tay về phía sau, hướng Lương Châu doanh.
Lưu Bị khẳng khái, nức nở nói: “Quân đội của Ôn Hầu tề chỉnh biết bao nhiêu, tiến thoái trật tự, từ tướng quân đến bộ binh, ai nấy tác phong nghiêm túc, tại sao các ngươi không biết học hỏi một chút?”
“Tại sao hả–?!” Hai mắt Lưu Bị chứa nhiệt lệ, lặp lại: “Tại sao!”
Chúng tướng dưới trướng nhìn chằm chằm Lã Bố cách đó không xa.
Lã Bố tỉnh bơ bước đều tăm tắp ngang qua Lưu Bị, kéo theo năm sáu vị tướng quân trẻ tuổi phía sau, trông như đàn gà con.
Kỳ Lân ngáp một cái thật to, nói: “Trời còn sớm, hôm nay định chơi cái gì đây—” Lười biếng với tay đu phía sau vai Lã Bố, được Lã Bố kéo đi.
Cam Ninh đi sau nói: “Thật là đờ mờ–” Tiện đà đu lên vai Kỳ Lân.
Mã Siêu cười: “Ta nữa!” Nói xong bám lên Cam Ninh, Trương Liêu bám vào vai Mã Siêu, mấy người kéo thành một hàng dài, Trương Liêu còn quay đầu lại gọi: “Tuấn Nghệ– vào luôn đi!”
Trương Cáp giật giật mép, nhưng cũng chỉ đành góp vui đu lên vai Trương Liêu.
Lã Bố mặt lạnh như tiền khiêng cả đại đội trên vai, nhưng lưng Ôn Hầu cũng có giới hạn, hai chân vẫn đều bước, thân trên đã bị kéo thiếu điều ngã ngửa ra sau, cuối cùng, ạch đụi một tiếng, ngã ngang.
Ái tướng ngã nghiêng ngã ngửa, té dồn cục, giày Mã Siêu đạp lên mặt Trương Cáp, ngón tay Trương Liêu cắm trong lỗ mũi Cam Ninh, kêu la ỏm tỏi.
“Mấy bé đẹp giai!” Kỳ Lân té sấp, nằm dưới cùng: “Đừng có đè ta! Mau đứng lên coi!”
Lưu Bị: “…”
Lúc đó, có ngột người cưỡi ngựa đến báo: “Ngô Hầu cho mời! Mời Phấn Vũ tướng quân, Lưu hoàng thúc cùng quân sư của hai doanh đến phủ nghị sự!”
Buổi sáng ngày thứ ba Lã Bố đến Kiến Nghiệp, cuối cùng Chu Du cũng chính thức mời đến dự hội nghị quân sự đầu tiên, nội dung cuộc họp lần này quyết định tồn vong của một nửa giang sơn từ Trường Giang về phương Nam.
Đến dự hội nghị gồm có, Lã Bố, Kỳ Lân, Trần Cung đại diện thế lực Tây Lương, tàn quân Kinh Châu gồm có Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi.
Chủ trì hội nghị là nhân vật mới mười sáu tuổi, Tôn Quyền. Chu Du, Lỗ Túc dự thính, Trương Chiêu ghi chép.
Lã Bố vừa ngồi vào bàn lập tức lệnh xuống: “Dâng rượu lên.”
Không ai nói gì, Lã Bố mỉm cười nói: “Đây là rượu có tiếng của Tây Lương, chất rượu ôn hòa, mời các vị nếm thử.”
Lưu Bị nhìn xuống, vui vẻ nói: “Rượu của Ôn Hầu chắc chắn phải nếm thử.”
Sau lưng Tôn Quyền, một tấm bản đồ bằng da trâu cực lớn trải rộng, mũi tên chỉ hướng hành quân từ bảy quận Kinh Châu đến Dương Châu. Bên cạnh còn treo bút tích của Kỳ Lân, “Bóng buồm đã khuất bầu không”.
Kỳ Lân nói: “Cũng mấy năm rồi, sao không đổi.”
Tôn Quyền cười đáp: “Ừ… Thường nhìn tranh với chữ trên đó nhớ ngươi.”
Chu Du cũng tham gia: “Ngươi đã dạy Trọng Mưu thổi huân.”
Kỳ Lân hỏi: “Vẽ có tiến bộ chút nào không?”
Tôn Quyền dặn dò vài câu rồi lại đáp: “Mấy hôm trước có vẽ một bức, để người mang đến cho ngươi xem.”
Lát sau tì nữ nâng bình rượu nho vào, rót ra chung, rượu nho đỏ thẫm như máu trong chung sứ trắng, tranh của Tôn Quyền trải trước bàn Kỳ Lân, Kỳ Lân nói: “Lại viết cho ngươi mấy chữ nhé, thay cho bức kia đi.”
Lã Bố cười nói: “Để ta viết, chữ của ngươi nhìn không ra.”
Lã Bố vươn tay trái, thế chỗ Kỳ Lân, Kỳ Lân đều giọng đọc thơ, Lã Bố viết như rồng bay phượng múa, nét mực chưa khô, Tôn Quyền vui mừng nhận lấy, sai người treo lên.
Tranh vẽ một con thuyền xuất lĩnh vạn con thuyền tiến thẳng vào trong mây, khí thế hào hùng không sao tả hết, bênh cạnh còn có bút tích của Lã Bố: “Đạp bằng sóng gió thời có lúc, Giong thẳng buồm mây vượt biển xanh(3).”
Chúng tướng đều khen ngợi.
“Hay!” Lưu Bị cạn chung rượu, nặng nề đặt chung xuống: “Phải khí thế như này mới đúng!”
Lỗ Túc nói: “Nguyện ngày sau xuất binh, sẽ ứng nghiệm lời này!”
Tôn Quyền lại lên tiếng: “Ba ngày trước, Tào tặc giao đến một phong thư, vừa đúng lúc Gia Cát tiên sinh vượt sông đến Giang Đông, Đô Đốc đã để việc bức thư đó sang một bên, hôm nay mời các vị thúc bá đến đây, chính là muốn thỉnh giáo nên đáp thế nào.”
Thư Tào Tháo còn phong kín, Tôn Quyền mở ra trước mặt mọi người, chuyền tay nhau đọc.
Trong thư là lời tuyên chiến của Tào Tháo, lệnh cưỡng ép Giang Đông đầu hàng, nếu không tám mươi vạn đại quân sẽ từ Tương Đông vượt Trường Giang, tiêu diệt thế lực Giang Đông.
“Với tám mươi vạn thủy quân, nếu các vị tướng quân muốn đối đầu với ta…” Tôn Quyền cười lạnh: “Thư này của Tào Tháo, toàn bộ đều là đe dọa, các vị là cha chú, nghĩ như thế nào?”
Lã Bố không xem thư, cất giọng trầm trầm: “Nếu đã nghị định, thì Giang Đông nên sẵn sàng nghênh chiến, hiện có bao nhiêu quân?”
Chu Du trả lời: “Mười tám vạn quân, bốn vạn lục quân, mười bốn vạn thủy quân.”
Lưu Bị cũng tham gia vào: “Dưới trướng ta có một vạn thủy binh là bộ hạ cũ từ Kinh Châu, cùng với mười lăm vạn quân.”
Lã Bố hớp một ngụm rượu, gật đầu nói: “Ta có một vạn thủy binh, mười sáu vạn binh, lần này ta mang theo ba vạn người đến, trong đó có hai vạn kỵ binh, vừa lúc có thể hiệp trợ các ngươi quấy nhiễu hậu phương quân Tào, từ Xích Bích đến Hạ Khẩu, Đương Dương, thậm chí dọc đường Tương Dương… Các ngươi, tránh ra tí nào.”
Tôn Quyền và chu Du nghiêng người, Lã Bố tay không bẻ một mảnh chung rượu, phất tay ném ra, ghim chính xác lên thành Tương Dương trên bản đồ: “Mấy cái thành mới ở Kinh Châu chắc chắn vẫn chưa ổn định, có thể nhiễu lòng quân.”
Tôn Quyền trầm tư, Chu Du gật đầu nói: “Hiện giờ Tào tặc đang đóng quân ở Giang Bắc, hai ngàn chiến thuyền, chúng ta nên giải quyết thế nào?”
Gia Cá Lượng lắc lắc quạt lông, nói như thường: “Kéo chân.”
Không đợi Tôn Quyền lên tiếng, Gia Cát Lượng đứng dậy, nói sang sảng:
“Tào Mạnh Đức xưa nay lấy kỵ binh để rong ruổi thiên hạ, sĩ tốt không giỏi bơi lội; Thái Mạo thì mới hàng, Trương Doãn là người Kinh Châu, dẫn hai vạn thủy quân đi tiên phong dễ dàng có tâm tư khác. Phe ta, một khi kỵ binh nhân cơ hội tập kích đất Tương Dương, thân nhân gia quyến của hàng tướng Thái Mạo đều ở hậu phương, lòng quân có biến, quân tiên phong không cần đánh cũng thua.”
Chu Du nhẹ gật đầu, bình luận: “Tào tặc hoàn toàn không có kinh nghiệm thủy chiến, chỉ có Thái Mạo quen thuộc từng ngóc ngách Trường Giang, mất đi người này…”
Trần Cung nói: “Chỉ e không hẳn như vậy.”
“Chủ công, Ngô Hầu.” Trần Cung chấp tay: “Xin hãy nghe ta nói.”
Trần Cung giơ tay chỉ thẳng Gia Cát Lượng: “Thứ cho Công Đài nói thẳng, Khổng Minh tiên sinh quả thực là đang ngồi chờ chết!”
Trần Cung là thân tín của Lã Bố, là người ở cuộc chiến Trường An ra quyết đinh nhanh chóng rút quân; lập kế hãm hại Lưu Bị ở Tiểu Bái, đánh liên tục đến Tây Lương cũng có một phần công sức của hắn, đã nổi tiếng khắp nơi từ lâu.
Gia Cát Lượng là lính mới, chưa có danh gì ngoài cuộc khẩu chiến quần nho ở Giang Đông, nói trắng ra vẫn chưa có đóng góp rõ ràng nào cho quân đội.
Trần Cung khiêu khích như thế, Gia Cát Lượng cũng không để ý.
Hắn vẫn đứng thẳng giữa phòng, tay cầm quạt lông che nửa bên mặt, cười yêu nghiệt: “Mời Công Đài tiên sinh chỉ giáo cho.”
Kỳ Lân phụt một tiếng phun rượu, cười to, Gia Cát Lượng làm ra hành động quái dị đó khiến Trần Cung mất hết khí thế, chưa gì đã thua một ván.
“Tào quân hành quân xa, vì sao lại dừng bên bờ sông không đi tiếp? Chỉ có một lý do duy nhất, say sóng!”
Trần Cung thao thao bất tuyệt, ngữ khí tràn ngập khí phách.
“Người bị say sóng, chỉ cần tập mấy ngày trên thuyền sẽ quen dần, nói cách khác, nếu Tào A Man có đủ thời gian thu xếp binh lính xong, đại quân sẽ vượt mọi chướng ngại, qua sông.
“Lúc qua sông vẫn chưa kịp chuẩn bị nghênh chiến; Đánh phủ đầu, mới là điểm mấu chốt của trận chiến này, phải quấy nhiễu trận địa Tào quân, nếu không…”
Kỳ Lân hứng thú nhìn Gia Cát Lượng.
Hai mắt Gia Cát Lượng chợt trở nên ranh mãnh, cũng mặc cho Trần Cung công kích, cười tủm tỉm nhìn Kỳ Lân.
Đợi cho Trần Cung trình bày hết chiến lực song phương và phân tích thiệt hơn trong việc xuất chiến lần này, Gia Cát Lượng mới bình tĩnh thong dong nói: “Lời của Công Đài tiên sinh rất đúng, bất ngờ tấn công trước, làm loạn đội ngũ, Khổng Minh thụ giáo.
“Nói vậy, Ôn Hầu đã có sách lược vẹn toàn, không bằng cho các vị tiên phong?”
Lúc này, Trần Cung mới vỡ lẽ ra mình bị bẫy.
Kỳ Lân dở khóc dở cười, lên tiếng trước với Gia Cát Lượng: “Công Đài huynh, chúng ta nhận thua.”
Chu Du không vui nói: “Đối đầu kẻ địch mạnh…”
Kỳ Lân nói: “Biết rồi, Công Cẩn.”
Trần Cung tức tối quay lại bàn, Kỳ Lân cũng không đứng dậy, tùy ý nói: “Thật không dám giấu giếm, trước khi đến có cùng Công Đài huynh và chủ công thương lượng qua, trận này quả thật không nên đợi Tào quân xuất kích, ít nhất cũng phải nhiễu địch thành công.
“Tuy nói liên quân sẽ khó lòng chỉ huy hơn quân của chính mình, lúc tác chiến dễ xuất hiện tình huống không nghe lệnh… Nhưng mạnh ai nấy đánh cũng không phải cách.”
Lã Bố hờ hững nói: “Đúng thế, thủy quân Lương Châu ta nguyện vì chư vị xung phong, dò quân lực của Tào Tháo.”
Lưu Bị lên tiếng: “Như thế vô cùng cảm tạ Ôn Hầu. Khổng Minh, là chúng ta quá tính toán, còn không bồi tội với quân sư và Hầu gia đi.”
Kỳ Lân cười nhẹ: “Đừng để ý, trước tiên bàn tiếp kế hoạch của chúng ta
“Muốn thăm dò cũng phải có phương pháp, trước đây chúng ta có đánh giá sơ về binh lực của Tào Tháo, nghĩ ra vài biện pháp.
“Đầu tiên: Tác chiến trên sông, dùng cờ để truyền tin giữa các thuyền với nhau, thuyền Tào Tháo đậu ở bờ Bắc, nếu không dùng cờ chỉ huy mà dùng thuyền nhỏ truyền tin sẽ mất khá nhiều thời gian.”
Lỗ Túc rất đồng ý: “Đúng vậy.”
Kỳ Lân lại nói: “Nếu chúng ta muốn thăm dò, thì không nên giao phong chính diện, vừa đến gần lập tức lui về, phải đồng thời đạt được hai mục đích – khiến Tào Tháo nghi ngờ lung tung và nắm được đại khái bố trí binh lực của Tào quân. Theo ý kiến của ta, trận này nên đánh vào ban đêm và thu binh trước khi bình minh, tổng cộng ba lần.”
Trương Phi ha ha cười: “Đây là biện pháp của ngươi phỏng?! Tối thui vậy có thấy cờ đâu mà…”
Lưu Bị ngăn: “Tam đệ, không thể kết luận bừa.”
Kỳ Lân miễn cưỡng nói: “Không thấy cờ nhưng có thể thấy đèn.”
Chu Du nghi ngờ: “Đèn không chiếu xa được, thuyền soái phải đến gần hơn ít nhất trăm bộ, một khi Tào quân phản kích, bị máy bắn đá đánh trúng thì không được.”
Kỳ Lân giải thích: “Không, chúng ta không chỉ huy trên thuyền soái, chúng ta đứng trên bờ để chỉ huy!
“Dùng trúc dựng ba tòa tháp canh cao tầm hai mươi trượng cần bao lâu?” Kỳ Lân đứng dậy chỉnh lại vạt áo, hỏi: “Ta đã nghiên cứu được đèn tín hiệu công suất lớn, cũng chuẩn bị nguồn sáng phù hợp.”
Gia Cát Lượng tán thưởng: “Ý kiến hay! Hai bờ Nam Bắc sông Trường Giang cách nhau gần năm dặm, làm sao đảm bảo đèn tín hiệu có thể truyền đạt chính xác trong đêm được?”
Kỳ Lân nói: “Cách đây sáu năm, chúng ta ở Lũng Tây phát hiện một loại dầu đốt mới. Trải qua tinh luyện đơn giản, khi đốt lên, cường độ ánh sáng mạnh hơn so với các loại đèn bình thường, chiếu xa hơn.”
Tôn Quyền vốn vẫn yên lặng không lên tiếng đột nhiên nói: “Kỳ Lân không cần lo, chúng ta còn có thể phái thuyền nhỏ neo trên sông, mỗi chiếc cách nhau một dặm, bố trí đèn để truyền tin.”
Kỳ Lân khen ngợi: “Ngươi thật thông minh! Giống như cách báo tin của Phong Hỏa đài, truyền qua từng trạm, cuối cùng đưa tin báo đến giữa chiến trường, lúc gần tới ta còn lo Giang Đông có sương mù, sẽ cản trở tầm nhìn. Nếu làm như vậy sẽ càng bảo đảm hơn.”
Chu Du híp mắt suy tư, không biết nghĩ thế nào mà gật gật đầu.
Bổ sung đúng lúc của Tôn Quyền làm Kỳ Lân rất nhẹ lòng, cười nói: “Thật sự, trong ba phó tướng thối tha này, Gia Cát Lượng là đỉnh nhất.”
Mọi người: “?”
Kỳ Lân: “…”
——————————-
Lời tác giả: Sự thật về cuộc chiến Xích Bích
Quân Đông Ngô có gần ba vạn thủy quân
Lưu Bị hai vạn, Tào Tháo mang tiếng có khoảng tám mươi vạn, thật ra chỉ có mười lăm vạn binh Kinh Châu và hai vạn mới đầu nhập vào
Chu Du cho rằng “năm vạn tinh binh có thể thắng”, vì thế ngang nhiên ứng chiến
——————————-
Chú thích:
Quân của Lưu Bị hạ trại ở Tây thành, Lã Bố ở trong phủ thành Kiến Nghiệp.
Sau khi ăn xong, Kỳ Lân thay quần áo, đi ra khỏi phủ. Trong thành Kiến Nghiệp nhà nhà đã lên đèn, binh doanh ngoài thành đuốc mọc như rừng, quân Lương Châu bên phải, quân Hán Nam bên trái, đối diện xa xa.
Lưu Bị thống lĩnh quân Hán Nam mặt mày bụi băm, ăn nhờ ở đậu, trong có vẻ bồn chồn lo lắng.
Quân Lương Châu thì lớn tiếng huyên náo, ăn thịt uống rượu nho, đèn đuốc sáng trưng.
“Quân sư đến–”
“Quân sư uống rượu!”
Kỳ Lân xua tay nói: “Các ngươi uống đi, nghỉ ngơi sớm.” Dứt lời đi sang quân doanh Hán Nam.
Sao đầy trời, một khúc đàn cổ xa xa truyền lại, bên bờ sông, sóng đánh dập dìu.
Kỳ Lân đứng trên một chỗ cao, Chu Du ngừng đánh đàn, cô đơn nói: “Cảm ơn ngươi đến tương trợ, Kỳ Lân.”
Kỳ Lân thở dài, ngồi xuống cạnh Chu Du, cùng hắn nhìn mặt sông: “Đây là quyết định của Phụng Tiên, đừng khách sáo. Tiếp theo ngươi có kế hoạch gì không?”
Chu Du trầm ngâm, nhẹ khảy dây đàn, hỏi: “Ngươi cảm thấy chúng ta có thể thắng không?”
Kỳ Lân: “Có thể, giống như ta biết Tôn lang sẽ chết, ta cũng biết, trận này, nhất định sẽ thắng.”
Chu Du chầm chậm nói: “Bảy năm trước, lúc ở Đan Dương ngươi từng nói qua; Ngày nào đó, Lưu Bị sẽ mang cả nhà đến nương tựa Trọng Mưu. Lúc đó, ta vô cùng kinh hãi, vốn muốn hỏi ngươi, sao không phải nhờ Tôn lang mà lại nhờ Trọng Mưu.”
Kỳ Lân thở dài: “Mệnh trời khó cãi, ta thay đổi quá trình mà không đổi được kết cục.”
Chu Du nói: “Hôm nay thiếu kiềm chế, để ngươi chê cười.”
“Khi tình cảm quá nhiều, tự nhiên sẽ biểu hiện ra thôi, Đô Đốc chí tình chí nghĩa, sao lại nói là thiếu kiềm chế?” Tiếng nói của Gia Cát Lượng vang lên phía sau hai người.
Chu Du mỉm cười có lệ, đẩy đàn ra, đứng dậy nói: “Trước tạm bỏ qua thiên mệnh đi, ta có một chuyện muốn thỉnh giáo, trận chiến này vì sao có thể thắng?”
Kỳ Lân thản nhiên nói: “Tào quân có đường lui, ta thì không; Chúng ta là chủ, Tào Tháo là khách; Thiên mệnh ở ta, không ở Tào, nên trận này tất thắng.”
Gia Cát Lượng gật đầu nói: “Lòng người hướng về đâu, thiên mệnh ở đó.”
Hình như Chu Du có hơi phiền muộn, lát sau mới nói: “Đã khuya rồi, mời hai vị quân sư về nghỉ ngơi, ngày mai lại bàn cặn kẽ chiến trình.”
Gia Cát Lượng nói: “Mời Đô đốc.”
Chu Du chắp tay chào, leo xuống dốc rời đi, khi người đã đi được xa xa rồi, đột nhiên Gia Cát Lượng lên tiếng: “Khích tướng, hâm dọa đều không bằng một câu của tiên sinh.”
Kỳ Lân tự nhiên nói: “Hắn chỉ muốn ta đến nói cho hắn nghe về thiên mệnh, nếu có nói với hắn trận này tất bại, có lẽ hắn cũng sẽ xuất lĩnh toàn bộ Giang Đông liều chết một trận, mời quân sư.”
Gia Cát Lương cùng Kỳ Lân leo xuống, Gia Cát Lượng vui vẻ mời: “Nếu tiên sinh đồng ý, mời đến doanh ta ngồi chơi?”
Kỳ Lân hơi suy nghĩ: “Cũng được.”
Đang nói, chợt thấy một người đứng dưới sườn dốc, là Trương Cáp phe mình.
“Chuyện gì thế?” Kỳ Lân hỏi.
Trương Cáp có vẻ hơi do dự, đánh giá Gia Cát Lượng rồi mới đáp: “Chủ công tỉnh rượu rồi, phái ta ra ngoài tìm ngươi.”
Kỳ Lân đáp: “Về nói với Phụng Tiên ta có chút việc lát mới về.”
Gia Cát Lượng: “Mời.”
Kỳ Lân cũng mời, Trương Cáp không về mà giữ khoảng cách đi theo phía sau, trong doanh Hán Nam, khắp nơi la liệt tướng sĩ mỏi mệt. Kỳ Lân mở lời: “Để ta bảo Mã Siêu đưa sang ít rượu, cho các ngươi nâng cao tinh thần.”
Gia Cát Lượng phe phẩy quạt lông, cười nói: “Đối đầu với kẻ địch mạnh không nên uống rượu. Tiên sinh là người phóng khoáng, nhưng ngặt nỗi chủ công ra lệnh quá sức nghiêm, chỉ có thể nhận lòng tốt của tiên sinh.”
Kỳ Lân chợt vui vẻ gọi: “Tử Long!”
Trước lều, Triệu Tử Long đang nhấc hai bên nách A Đẩu, cẩn thận đặt đứa trẻ còn chưa đầy năm ngồi xuống cái ghế gỗ đối diện với mình, nghe tiếng đứng dậy: “Kỳ Lân?”
“Chủ công đang có khách à?” Khổng Minh hỏi.
Triệu Vân nói: “Chủ công đang nói chuyện với sứ giả của đất Thục trong lều. Mời tiên sinh và quân sư chờ một chút.”
Khổng Minh lại nói: “Coi chừng gió lớn cảm lạnh.”
Triệu Vân mỉm cười, đáp: “Không sao, mặc dày lắm.”
Kỳ Lân để ý đến hai chữ đất Thụ. Trong lịch sử, để móc nối với Lưu Bị, Trương Tùng dâng bản đồ Ích Châu, lẽ nào người bán lãnh địa của Lưu Chương là Trương Tùng? Trên tay Triệu Vân cầm con hổ vải, để nó đi tới đi lui trước ghế gỗ của A Đẩu, A Đẩu xem rất vui, cười thành tiếng.
Kỳ Lân hỏi: “Đầu A Đẩu bị làm sao thế?”
Triệu Vân đáp: “Va đầu, nam tử hán đại trượng phu, bị thương mới mau lớn, không cần để ý, đúng không, A Đẩu.”
Trên trán A Đẩu có vết thương nhỏ, không cần hỏi cũng biết là do Lưu Bị ném, đang với tay theo hổ nhỏ trong tay Triệu Vân.
Kỳ Lân vuốt vuốt tay lên trán A Đẩu, dùng tiên lực tiêu bầm, Triệu Vân thở phào, vô cùng cảm kích, cười nói: “Không sợ bị phá tướng…”
Kỳ Lân chế nhạo: “Bày đặt mạnh miệng nữa thôi? Đau lòng muốn chết.”
A Đẩu nắm được con hổ vải kéo kéo, Triệu Vân cười thả lòng tay, cho nó, lại nói với Kỳ Lân: “Ai cũng nói ngươi hiểu thiên cơ, ngươi xem tướng mạng cho hắn thử, xem sau này số mệnh tiểu chủ công thế nào?”
Đột nhiên, Trương Cáp lên tiếng: “Nghe đồn… A Đẩu vô dụng?”
Một câu này làm mặt ai cũng đen thui, Kỳ Lân chợt nhớ đây là câu nói chính mình truyền bá, nên lúc này càng vô cùng xấu hổ.
May mắn có Gia Cát Lượng xoay chuyển tình hình: “Nếu mệnh phạm vào cô sát, Tử Long có bỏ mặc được không?”
Triệu Tử Long hiểu ý, cười đáp: “Tử Long nhiều chuyện, dù có thế nào cũng liều chết che chở, tướng mạng gì đó đều không có thật, vốn chẳng có số mệnh gì cả, không cần để ý, tương lai tiểu chủ công chắc chắn có thể trở thành một đại tài.”
Gia Cát Lượng gật đầu cười: “Chính là như vậy.” Nói xong thì thôi, tự mình đi qua tìm chỗ ngồi xuống.
Kỳ Lân tự nhiên hỏi: “Vốn tưởng rằng Lưu Bị sẽ sửa tên cho con trai, sao vẫn còn gọi A Đẩu.” Vừa nói vừa ôm A Đẩu lên lắc trái lắc phải, A Đẩu phun mưa trong miệng.
Triệu Tử Long nói: “Lúc chủ mẫu sắp sinh có nằm mơ, thấy ánh sáng lộng lẫy bao phủ bầu trời, Thiên Cương Bắc Đẩu bay liệng về hướng Đông Bắc, rồi giáng xuống lều, ngay sau đó sinh ra tiểu chủ công.”
Kỳ Lân hỏi lại: “Mơ thấy Thiên Cương Bắc Đẩu, nên mới đặt nhủ danh là A Đẩu sao?”
Triệu Vân gật đầu: “Ngày đó Thủy Kính tiên sinh đúng dịp đến Tân Dã làm khách, có đàm luận về điềm lành “Chân đạp thất tinh.”
Kỳ Lân rất đỗi ngạc nhiên: “Chân đạp thất tinh à? Đấy chẳng phải là tướng mệnh của vương hầu đế trụ sao?”
Kỳ Lâm lẩm bẩm: “Mọc răng chưa đây? Miệng bé xíu à.” Đầu ngón tay chọt chọt miệng A Đẩu, cố chen vào trong, A Đẩu chỉ có lợi chưa mọc răng, bị ngón tay chọt chọt vào trong miệng, lập tức ngậm chặt miệng dùng lợi cắn lên đầu ngón tay Kỳ Lân.
“Ai ui…” Kỳ Lân bị cắn la làng la xóm.
“A Đẩu, đừng có nghịch!” Triệu Vân vội bóp miệng A Đẩu dụ nó mở miệng ra.
Triệu Vân nói: “Để ta vào trong lều xem, chủ công…”
Kỳ Lân từ chối: “Không cần đâu, ta chỉ đến thăm A Đẩu thôi, đi ngay đây.”
Gia Cát Lượng đang ngồi gần đó, nhìn rất thảnh thơi, nghe vậy hỏi: “Về liền à?”
Kỳ Lân lấy kim châu đeo trên cổ xuống, rút dây, tháo hai cái nanh sói do Lã Bố tặng ra, đưa cho A Đẩu, hai bàn tay nhỏ của A Đẩu mỗi bên cầm một cái, bi bô lắc lắc.
Kỳ Lân cười nói: “Dù sao ngươi cũng có Tử Long rồi… Món đồ chơi này xem như thế thân của Phụng Tiên nhé, bồi thường cho ngươi đấy(1).”
Triệu Vân nhìn A Đẩu bé nhỏ một hồi, đôi mắt tự nhiên ửng đỏ, xoa xoa đầu A Đẩu, dịu dàng hôn lên trán nó.
Hôm sau, sau khi dùng điểm tâm xong, Kỳ Lân bước liêu xiêu, lim dim buồn ngủ theo Lã Bố ra khỏi thành, tuần doanh.
“Sau này ngươi đừng uống nhiều quá… Có rượu vào rồi cứ như sư tử ấy.” Kỳ Lân bất mãn phê bình.
Lã Bố: “Ồ, ngươi từng bị sư tử chịch rồi à?”
Kỳ Lân: “…”
Trong nắng sớm, chư tướng trong quân doanh nghe tin chủ công đến, đều ra ngoài xếp hàng, Lã Bố chỉ nhìn lướt qua, nói: “Ừm, thôi, hôm nay tâm tình quân sư không được tốt lắm, mọi người nghỉ ngơi đi.”
Chúng tướng hô: “Chủ công uy vũ—”
Đối diện với cửa quân doanh, Lưu Bị đang đứng quay lưng về phía này, lớn tiếng răn dạy chúng ái tướng dưới trướng.
“Tinh thần yếu đuối, thôi lôi lếch thếch, hành quân chắc chắn thất bại! Các ngươi đang làm gì thế! Xốc vác lên!” Lưu Bị răn dạy người khác không giống như người hay dùng ‘bom cay’(2) thường ngày, cũng ra hình ra dạng lắm.
“Xem mà học tập.” Kỳ Lân xoay đầu Lã Bố, để hắn chuyển hướng đối diện với đại doanh quân Hán Nam, xem Lưu Bị dạy người của hắn thế nào.
Lưu Bị vẫn chưa biết bên quân doanh đối diện đang chăm chú quan sát mình, bất chợt đổi giọng, lệ rơi lã chã:
“Nay chúng ta đang thời kỳ nguy nan, nếu không phấn chấn kiên cường, làm sao dám nhắc chuyện thiên hạ! Bàn luận trăm họ–!”
Lưu Bị thấy nhóm Liêu Hóa, Quan Vũ nhìn về quân doanh đối diện, suy nghĩ nhanh. Chính hắn cũng không quay đầu, chỉ tay về phía sau, hướng Lương Châu doanh.
Lưu Bị khẳng khái, nức nở nói: “Quân đội của Ôn Hầu tề chỉnh biết bao nhiêu, tiến thoái trật tự, từ tướng quân đến bộ binh, ai nấy tác phong nghiêm túc, tại sao các ngươi không biết học hỏi một chút?”
“Tại sao hả–?!” Hai mắt Lưu Bị chứa nhiệt lệ, lặp lại: “Tại sao!”
Chúng tướng dưới trướng nhìn chằm chằm Lã Bố cách đó không xa.
Lã Bố tỉnh bơ bước đều tăm tắp ngang qua Lưu Bị, kéo theo năm sáu vị tướng quân trẻ tuổi phía sau, trông như đàn gà con.
Kỳ Lân ngáp một cái thật to, nói: “Trời còn sớm, hôm nay định chơi cái gì đây—” Lười biếng với tay đu phía sau vai Lã Bố, được Lã Bố kéo đi.
Cam Ninh đi sau nói: “Thật là đờ mờ–” Tiện đà đu lên vai Kỳ Lân.
Mã Siêu cười: “Ta nữa!” Nói xong bám lên Cam Ninh, Trương Liêu bám vào vai Mã Siêu, mấy người kéo thành một hàng dài, Trương Liêu còn quay đầu lại gọi: “Tuấn Nghệ– vào luôn đi!”
Trương Cáp giật giật mép, nhưng cũng chỉ đành góp vui đu lên vai Trương Liêu.
Lã Bố mặt lạnh như tiền khiêng cả đại đội trên vai, nhưng lưng Ôn Hầu cũng có giới hạn, hai chân vẫn đều bước, thân trên đã bị kéo thiếu điều ngã ngửa ra sau, cuối cùng, ạch đụi một tiếng, ngã ngang.
Ái tướng ngã nghiêng ngã ngửa, té dồn cục, giày Mã Siêu đạp lên mặt Trương Cáp, ngón tay Trương Liêu cắm trong lỗ mũi Cam Ninh, kêu la ỏm tỏi.
“Mấy bé đẹp giai!” Kỳ Lân té sấp, nằm dưới cùng: “Đừng có đè ta! Mau đứng lên coi!”
Lưu Bị: “…”
Lúc đó, có ngột người cưỡi ngựa đến báo: “Ngô Hầu cho mời! Mời Phấn Vũ tướng quân, Lưu hoàng thúc cùng quân sư của hai doanh đến phủ nghị sự!”
Buổi sáng ngày thứ ba Lã Bố đến Kiến Nghiệp, cuối cùng Chu Du cũng chính thức mời đến dự hội nghị quân sự đầu tiên, nội dung cuộc họp lần này quyết định tồn vong của một nửa giang sơn từ Trường Giang về phương Nam.
Đến dự hội nghị gồm có, Lã Bố, Kỳ Lân, Trần Cung đại diện thế lực Tây Lương, tàn quân Kinh Châu gồm có Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi.
Chủ trì hội nghị là nhân vật mới mười sáu tuổi, Tôn Quyền. Chu Du, Lỗ Túc dự thính, Trương Chiêu ghi chép.
Lã Bố vừa ngồi vào bàn lập tức lệnh xuống: “Dâng rượu lên.”
Không ai nói gì, Lã Bố mỉm cười nói: “Đây là rượu có tiếng của Tây Lương, chất rượu ôn hòa, mời các vị nếm thử.”
Lưu Bị nhìn xuống, vui vẻ nói: “Rượu của Ôn Hầu chắc chắn phải nếm thử.”
Sau lưng Tôn Quyền, một tấm bản đồ bằng da trâu cực lớn trải rộng, mũi tên chỉ hướng hành quân từ bảy quận Kinh Châu đến Dương Châu. Bên cạnh còn treo bút tích của Kỳ Lân, “Bóng buồm đã khuất bầu không”.
Kỳ Lân nói: “Cũng mấy năm rồi, sao không đổi.”
Tôn Quyền cười đáp: “Ừ… Thường nhìn tranh với chữ trên đó nhớ ngươi.”
Chu Du cũng tham gia: “Ngươi đã dạy Trọng Mưu thổi huân.”
Kỳ Lân hỏi: “Vẽ có tiến bộ chút nào không?”
Tôn Quyền dặn dò vài câu rồi lại đáp: “Mấy hôm trước có vẽ một bức, để người mang đến cho ngươi xem.”
Lát sau tì nữ nâng bình rượu nho vào, rót ra chung, rượu nho đỏ thẫm như máu trong chung sứ trắng, tranh của Tôn Quyền trải trước bàn Kỳ Lân, Kỳ Lân nói: “Lại viết cho ngươi mấy chữ nhé, thay cho bức kia đi.”
Lã Bố cười nói: “Để ta viết, chữ của ngươi nhìn không ra.”
Lã Bố vươn tay trái, thế chỗ Kỳ Lân, Kỳ Lân đều giọng đọc thơ, Lã Bố viết như rồng bay phượng múa, nét mực chưa khô, Tôn Quyền vui mừng nhận lấy, sai người treo lên.
Tranh vẽ một con thuyền xuất lĩnh vạn con thuyền tiến thẳng vào trong mây, khí thế hào hùng không sao tả hết, bênh cạnh còn có bút tích của Lã Bố: “Đạp bằng sóng gió thời có lúc, Giong thẳng buồm mây vượt biển xanh(3).”
Chúng tướng đều khen ngợi.
“Hay!” Lưu Bị cạn chung rượu, nặng nề đặt chung xuống: “Phải khí thế như này mới đúng!”
Lỗ Túc nói: “Nguyện ngày sau xuất binh, sẽ ứng nghiệm lời này!”
Tôn Quyền lại lên tiếng: “Ba ngày trước, Tào tặc giao đến một phong thư, vừa đúng lúc Gia Cát tiên sinh vượt sông đến Giang Đông, Đô Đốc đã để việc bức thư đó sang một bên, hôm nay mời các vị thúc bá đến đây, chính là muốn thỉnh giáo nên đáp thế nào.”
Thư Tào Tháo còn phong kín, Tôn Quyền mở ra trước mặt mọi người, chuyền tay nhau đọc.
Trong thư là lời tuyên chiến của Tào Tháo, lệnh cưỡng ép Giang Đông đầu hàng, nếu không tám mươi vạn đại quân sẽ từ Tương Đông vượt Trường Giang, tiêu diệt thế lực Giang Đông.
“Với tám mươi vạn thủy quân, nếu các vị tướng quân muốn đối đầu với ta…” Tôn Quyền cười lạnh: “Thư này của Tào Tháo, toàn bộ đều là đe dọa, các vị là cha chú, nghĩ như thế nào?”
Lã Bố không xem thư, cất giọng trầm trầm: “Nếu đã nghị định, thì Giang Đông nên sẵn sàng nghênh chiến, hiện có bao nhiêu quân?”
Chu Du trả lời: “Mười tám vạn quân, bốn vạn lục quân, mười bốn vạn thủy quân.”
Lưu Bị cũng tham gia vào: “Dưới trướng ta có một vạn thủy binh là bộ hạ cũ từ Kinh Châu, cùng với mười lăm vạn quân.”
Lã Bố hớp một ngụm rượu, gật đầu nói: “Ta có một vạn thủy binh, mười sáu vạn binh, lần này ta mang theo ba vạn người đến, trong đó có hai vạn kỵ binh, vừa lúc có thể hiệp trợ các ngươi quấy nhiễu hậu phương quân Tào, từ Xích Bích đến Hạ Khẩu, Đương Dương, thậm chí dọc đường Tương Dương… Các ngươi, tránh ra tí nào.”
Tôn Quyền và chu Du nghiêng người, Lã Bố tay không bẻ một mảnh chung rượu, phất tay ném ra, ghim chính xác lên thành Tương Dương trên bản đồ: “Mấy cái thành mới ở Kinh Châu chắc chắn vẫn chưa ổn định, có thể nhiễu lòng quân.”
Tôn Quyền trầm tư, Chu Du gật đầu nói: “Hiện giờ Tào tặc đang đóng quân ở Giang Bắc, hai ngàn chiến thuyền, chúng ta nên giải quyết thế nào?”
Gia Cá Lượng lắc lắc quạt lông, nói như thường: “Kéo chân.”
Không đợi Tôn Quyền lên tiếng, Gia Cát Lượng đứng dậy, nói sang sảng:
“Tào Mạnh Đức xưa nay lấy kỵ binh để rong ruổi thiên hạ, sĩ tốt không giỏi bơi lội; Thái Mạo thì mới hàng, Trương Doãn là người Kinh Châu, dẫn hai vạn thủy quân đi tiên phong dễ dàng có tâm tư khác. Phe ta, một khi kỵ binh nhân cơ hội tập kích đất Tương Dương, thân nhân gia quyến của hàng tướng Thái Mạo đều ở hậu phương, lòng quân có biến, quân tiên phong không cần đánh cũng thua.”
Chu Du nhẹ gật đầu, bình luận: “Tào tặc hoàn toàn không có kinh nghiệm thủy chiến, chỉ có Thái Mạo quen thuộc từng ngóc ngách Trường Giang, mất đi người này…”
Trần Cung nói: “Chỉ e không hẳn như vậy.”
“Chủ công, Ngô Hầu.” Trần Cung chấp tay: “Xin hãy nghe ta nói.”
Trần Cung giơ tay chỉ thẳng Gia Cát Lượng: “Thứ cho Công Đài nói thẳng, Khổng Minh tiên sinh quả thực là đang ngồi chờ chết!”
Trần Cung là thân tín của Lã Bố, là người ở cuộc chiến Trường An ra quyết đinh nhanh chóng rút quân; lập kế hãm hại Lưu Bị ở Tiểu Bái, đánh liên tục đến Tây Lương cũng có một phần công sức của hắn, đã nổi tiếng khắp nơi từ lâu.
Gia Cát Lượng là lính mới, chưa có danh gì ngoài cuộc khẩu chiến quần nho ở Giang Đông, nói trắng ra vẫn chưa có đóng góp rõ ràng nào cho quân đội.
Trần Cung khiêu khích như thế, Gia Cát Lượng cũng không để ý.
Hắn vẫn đứng thẳng giữa phòng, tay cầm quạt lông che nửa bên mặt, cười yêu nghiệt: “Mời Công Đài tiên sinh chỉ giáo cho.”
Kỳ Lân phụt một tiếng phun rượu, cười to, Gia Cát Lượng làm ra hành động quái dị đó khiến Trần Cung mất hết khí thế, chưa gì đã thua một ván.
“Tào quân hành quân xa, vì sao lại dừng bên bờ sông không đi tiếp? Chỉ có một lý do duy nhất, say sóng!”
Trần Cung thao thao bất tuyệt, ngữ khí tràn ngập khí phách.
“Người bị say sóng, chỉ cần tập mấy ngày trên thuyền sẽ quen dần, nói cách khác, nếu Tào A Man có đủ thời gian thu xếp binh lính xong, đại quân sẽ vượt mọi chướng ngại, qua sông.
“Lúc qua sông vẫn chưa kịp chuẩn bị nghênh chiến; Đánh phủ đầu, mới là điểm mấu chốt của trận chiến này, phải quấy nhiễu trận địa Tào quân, nếu không…”
Kỳ Lân hứng thú nhìn Gia Cát Lượng.
Hai mắt Gia Cát Lượng chợt trở nên ranh mãnh, cũng mặc cho Trần Cung công kích, cười tủm tỉm nhìn Kỳ Lân.
Đợi cho Trần Cung trình bày hết chiến lực song phương và phân tích thiệt hơn trong việc xuất chiến lần này, Gia Cát Lượng mới bình tĩnh thong dong nói: “Lời của Công Đài tiên sinh rất đúng, bất ngờ tấn công trước, làm loạn đội ngũ, Khổng Minh thụ giáo.
“Nói vậy, Ôn Hầu đã có sách lược vẹn toàn, không bằng cho các vị tiên phong?”
Lúc này, Trần Cung mới vỡ lẽ ra mình bị bẫy.
Kỳ Lân dở khóc dở cười, lên tiếng trước với Gia Cát Lượng: “Công Đài huynh, chúng ta nhận thua.”
Chu Du không vui nói: “Đối đầu kẻ địch mạnh…”
Kỳ Lân nói: “Biết rồi, Công Cẩn.”
Trần Cung tức tối quay lại bàn, Kỳ Lân cũng không đứng dậy, tùy ý nói: “Thật không dám giấu giếm, trước khi đến có cùng Công Đài huynh và chủ công thương lượng qua, trận này quả thật không nên đợi Tào quân xuất kích, ít nhất cũng phải nhiễu địch thành công.
“Tuy nói liên quân sẽ khó lòng chỉ huy hơn quân của chính mình, lúc tác chiến dễ xuất hiện tình huống không nghe lệnh… Nhưng mạnh ai nấy đánh cũng không phải cách.”
Lã Bố hờ hững nói: “Đúng thế, thủy quân Lương Châu ta nguyện vì chư vị xung phong, dò quân lực của Tào Tháo.”
Lưu Bị lên tiếng: “Như thế vô cùng cảm tạ Ôn Hầu. Khổng Minh, là chúng ta quá tính toán, còn không bồi tội với quân sư và Hầu gia đi.”
Kỳ Lân cười nhẹ: “Đừng để ý, trước tiên bàn tiếp kế hoạch của chúng ta
“Muốn thăm dò cũng phải có phương pháp, trước đây chúng ta có đánh giá sơ về binh lực của Tào Tháo, nghĩ ra vài biện pháp.
“Đầu tiên: Tác chiến trên sông, dùng cờ để truyền tin giữa các thuyền với nhau, thuyền Tào Tháo đậu ở bờ Bắc, nếu không dùng cờ chỉ huy mà dùng thuyền nhỏ truyền tin sẽ mất khá nhiều thời gian.”
Lỗ Túc rất đồng ý: “Đúng vậy.”
Kỳ Lân lại nói: “Nếu chúng ta muốn thăm dò, thì không nên giao phong chính diện, vừa đến gần lập tức lui về, phải đồng thời đạt được hai mục đích – khiến Tào Tháo nghi ngờ lung tung và nắm được đại khái bố trí binh lực của Tào quân. Theo ý kiến của ta, trận này nên đánh vào ban đêm và thu binh trước khi bình minh, tổng cộng ba lần.”
Trương Phi ha ha cười: “Đây là biện pháp của ngươi phỏng?! Tối thui vậy có thấy cờ đâu mà…”
Lưu Bị ngăn: “Tam đệ, không thể kết luận bừa.”
Kỳ Lân miễn cưỡng nói: “Không thấy cờ nhưng có thể thấy đèn.”
Chu Du nghi ngờ: “Đèn không chiếu xa được, thuyền soái phải đến gần hơn ít nhất trăm bộ, một khi Tào quân phản kích, bị máy bắn đá đánh trúng thì không được.”
Kỳ Lân giải thích: “Không, chúng ta không chỉ huy trên thuyền soái, chúng ta đứng trên bờ để chỉ huy!
“Dùng trúc dựng ba tòa tháp canh cao tầm hai mươi trượng cần bao lâu?” Kỳ Lân đứng dậy chỉnh lại vạt áo, hỏi: “Ta đã nghiên cứu được đèn tín hiệu công suất lớn, cũng chuẩn bị nguồn sáng phù hợp.”
Gia Cát Lượng tán thưởng: “Ý kiến hay! Hai bờ Nam Bắc sông Trường Giang cách nhau gần năm dặm, làm sao đảm bảo đèn tín hiệu có thể truyền đạt chính xác trong đêm được?”
Kỳ Lân nói: “Cách đây sáu năm, chúng ta ở Lũng Tây phát hiện một loại dầu đốt mới. Trải qua tinh luyện đơn giản, khi đốt lên, cường độ ánh sáng mạnh hơn so với các loại đèn bình thường, chiếu xa hơn.”
Tôn Quyền vốn vẫn yên lặng không lên tiếng đột nhiên nói: “Kỳ Lân không cần lo, chúng ta còn có thể phái thuyền nhỏ neo trên sông, mỗi chiếc cách nhau một dặm, bố trí đèn để truyền tin.”
Kỳ Lân khen ngợi: “Ngươi thật thông minh! Giống như cách báo tin của Phong Hỏa đài, truyền qua từng trạm, cuối cùng đưa tin báo đến giữa chiến trường, lúc gần tới ta còn lo Giang Đông có sương mù, sẽ cản trở tầm nhìn. Nếu làm như vậy sẽ càng bảo đảm hơn.”
Chu Du híp mắt suy tư, không biết nghĩ thế nào mà gật gật đầu.
Bổ sung đúng lúc của Tôn Quyền làm Kỳ Lân rất nhẹ lòng, cười nói: “Thật sự, trong ba phó tướng thối tha này, Gia Cát Lượng là đỉnh nhất.”
Mọi người: “?”
Kỳ Lân: “…”
——————————-
Lời tác giả: Sự thật về cuộc chiến Xích Bích
Quân Đông Ngô có gần ba vạn thủy quân
Lưu Bị hai vạn, Tào Tháo mang tiếng có khoảng tám mươi vạn, thật ra chỉ có mười lăm vạn binh Kinh Châu và hai vạn mới đầu nhập vào
Chu Du cho rằng “năm vạn tinh binh có thể thắng”, vì thế ngang nhiên ứng chiến
——————————-
Chú thích:
- Đoạn này nếu bà con nào xem Phá Quán Tử Phá Suất rồi sẽ biết, trong bộ đó A Đẩu câu được 2 ông chồng siêu ngầu là Triệu Vân và Lã Bố, tất nhiên là trong 1 thời không khác. Lã Bố trong đó không phải Lã Bố yêu Kỳ Lân. Về sau sẽ có giải thích chỗ này. Đoạn Kỳ Lân tặng cặp nanh sói cũng có giải thích ở phần sau.
- Bom cay ở đây ý nhạo bình thường Lưu Bị mau nước mắt.
- Hai câu trong bài Hành Lộ Nan Kỳ 1 của Lý Bạch, “Thừa phong phá lãng hội hữu thì, trực quải vân phàm tể thương hải.”
Danh sách chương