AĐiện Văn Đức.
Nguyên Thú đế vùi đầu xử lý chính sự, bên dưới điện là Triệu tế chấp và Đông cung Thái tử.
Lật xong sổ gấp đến từ Định Châu, Nguyên Thú đế gấp sổ lại, thần sắc khẽ động, nói: "Lão nhị, con tới xem thử sổ con này đi."
Thái tử ở gần, lên cầm sổ gấp đọc nhanh như gió.
Nguyên Thú đế: "Tiểu lục nói nó săn được một con chim ưng thuần trắng móng ngọc, nhớ ngày đó trẫm từng nắm tay dạy nó săn ưng, thuần ưng, nên cho người ra roi thúc ngựa đưa chim ưng về kinh.
Đưa cả đá Thái Sơn mang điềm lành và bạch nam khách về —— chim công là động vật ở phương nam, tên cổ là nam khách, trẫm rất tò mò vì sao tiểu lục ở phương bắc lại có thể bắt được một con công trắng."
Bạch nam khách là chim công trắng, trong Phật giáo, khổng tước minh vương được tôn làm Phật mẫu, đây có lẽ sẽ là món quà ý nghĩa nhất trong số những món được đưa đến đại thọ của Thái hậu.
"Tâm tư của lục đệ khéo léo, không giới hạn kiểu cách, thích kết giao bạn bè không quan trọng xuất thân, vậy nên có bạn bè trong giang hồ giúp đệ ấy tìm ra chim công trắng cũng không phải chuyện gì hiếm lạ." Thái tử cân nhắc tìm từ rồi nói: "Nhắc đến Lục đệ, đệ ấy đến Định Châu nhập ngũ cũng năm sáu năm rồi, tuy nói con em Hoắc thị chúng ta trấn thủ biên giới, bảo vệ quốc gia là nền móng không thể quên, cũng là chức trách của mỗi người, nhưng lúc đệ ấy mới mười bốn mười lăm tuổi đã tách khỏi phụ hoàng, tách khỏi hoàng tổ mẫu, rời kinh đô và người thân quen, đến nay chưa từng hồi kinh, cũng không biết bây giờ đệ ấy thế nào.
Lính thú trông ra biên ải xa, lòng buồn mặt khổ nhớ quê nhà, tất nhiên là lục đệ cũng rất nhớ nhà, rất nhớ phụ hoàng, hoàng tổ mẫu và quý phi nương nương."
(*) Nguyên văn: 戍客望边邑, 思归多苦颜 - bài thơ Quan sơn nguyệt của Lý Bạch, phiên âm: Thú khách vọng biên ấp, tư quy đa khổ nhan; Dịch nghĩa Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa, lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ.
Nguyên Thú đế: "Tiểu lục rời kinh được một thời gian dài rồi nhỉ, quả thực đã rất lâu không về nhà."
Thái tử: "Đại thọ hoàng tổ mẫu là chuyện vui khắp chốn ăn mừng, sao phụ hoàng không nhân cơ hội này truyền lục đệ hồi kinh, để cha con chúng ta đoàn tụ, cũng có thể làm cho hoàng tổ mẫu vui vẻ.
Nhi thần nhớ hoàng tổ mẫu rất thích tiểu lục, người thường khen tiểu lục hiếu thuận, cũng hay nhắc đã lâu không gặp đệ ấy."
"Con cũng có hiếu tâm." Dù là thật hay giả, dù cẩn thận giấu giếm lòng mình, thì nhìn thấy con cái hiểu thuận, anh em vui vẻ là Nguyên Thú đế đã hài lòng rồi.
Ông suy nghĩ một chút, than thở: "Thái hậu đúng là nhớ tiểu lục lắm rồi, quý phi ngoài miệng không nói, nhưng trong lòng cũng nhớ.
Thôi vậy, bảo nó tự hộ tống cống phẩm hồi kinh đi.
Dặn là phải về trước sinh nhật của Thái hậu, nếu như lỡ mất ngày đấy thì không cần về nữa, cứ ở lại Định Châu của nó luôn đi."
Trong lòng Thái tử run rẩy, câu này suýt chút nữa là đụng ngã tâm tư của hắn, cũng may hắn tỉnh táo, vì việc chặn đường lục đệ không hẳn sẽ thành công.
Lục đệ bỏ lỡ sinh nhật của Thái hậu chắc chắn chọc giận Nguyên Thú đế, nhưng có lẽ ông sẽ không truy cứu thật.
"Lục đệ biết mình có thể hồi kinh nhất định sẽ rất vui, anh em chúng con cũng có thể tụ họp một chút."
Nguyên Thú để tỏ ra dễ chịu, môi câu nụ cười, tầm mắt khẽ hướng xuống, nhìn thấy một xấp tấu chương mà Triệu tế chấp đưa tới hôm nay, đều là do các nơi ở tỉnh ngoài đưa vào kinh, ông cứ cho rằng đó là chúc thọ nên không để ý lắm, tiện tay cầm một quyển mở ra xem, lông mày vô thức nhíu lại.
Thái tử quan sát kĩ biểu cảm của Nguyên Thú đế, tất nhiên cũng phát hiện ra thay đổi nhỏ xíu này, không khỏi nhìn về phía tấu chương, chỉ tiếc hắn đứng ở vị trí khó mà nhìn rõ những gì viết trong sổ con, chỉ đành lặng lẽ đưa mắt nhìn Triệu tế chấp.
Triệu Bá Ung thấp mi rũ mắt, mặt không cảm xúc, không đoán ra được ông ta đang nghĩ gì.
Lúc này Nguyên Thú đế đã cầm bản sớ thứ hai lên, liếc xem hai ba lần rồi ném về, sau đó xem liên tục năm sáu quyển sổ con khác, chợt vỗ lên tấu chương một phát, trên mặt lộ ra vẻ tức giận.
Thái tử vội cúi đầu lui về sau hai bước, đáy mắt liếc thấy thái độ vẫn còn bình tĩnh ung dung của Triệu tế chấp, không khỏi cảm thán mấy lão thần này đúng là giỏi bất động khi đối mặt với nguy hiểm.
"Sổ con hôm nay đều đến từ phía nam sao?"
Triệu Bá Ung đáp: "Đến từ Lưỡng Giang, Phúc Kiến và bốn tỉnh Quảng Đông, tổng cộng một trăm tám mươi sổ con."
Nguyên Thú đế: "Ngươi đã xem qua những sổ con này, đều biết bọn họ biểu tấu cái gì rồi chứ?"
Triệu Bá Ung: "Bốn tỉnh ba mươi tám phủ và Môn hạ tỉnh Chương thị trung Chương Duyệt Linh, cộng với một trăm tám mươi người liên danh biểu tấu bảo vệ Phán quan Hồng Châu Giang Tây Ma Đắc Dung.
Tội của Ma Đắc Dung là trên đường áp tải cống phẩm đá Anh Đức, gặp phải thuyền chở quan lương không chịu nhường đường, dẫn đến việc thuyền bị lật, quan lương và cống phẩm đều bị chìm xuống sông, làm chết mười người."
Thái tử nghe vậy thì kinh hãi, cống phẩm gặp chuyện bất trắc xưa nay phải hỏi tội Giám quan thất trách, nhẹ thì mất chức, nặng thì đầu rơi, đá Anh Đức cát tường tuy không phải là thứ Thái hậu yêu thích, nhưng đó là quà mừng mà Xương Bình trưởng công chúa mượn danh nghĩa Tri phủ Hồng Châu đưa vào kinh, là vật thay thế cho tấm lòng của cô con gái ruột hai mươi năm không gặp mặt, mang ý nghĩa rất đặc biệt đối với Thái hậu.
Chuyện đá Anh Đức bị chìm được truyền vào cung, Thái hậu đau lòng buồn bã, Nguyên Thú đế nổi trận lôi đình, lệnh cho người bắt Giám quan Ma Đắc Dung lại, đem nhốt vào thiên lao, nhìn ý là xử tội nặng, tuyệt đối không nhân nhượng.
Huống chi đối phương còn mắc phải tội làm hỏng quan lương, có lẽ sẽ bị tử hình.
Nhưng hắn không ngờ cái tên Ma Đắc Dung này lại còn có thể tìm được đường sống trong cõi chết, hơn một trăm quan viên từ bốn tỉnh phương nam liên danh lên tấu bảo vệ gã, mà người dẫn đầu chính là người xứng danh phó tể tướng Chương thị trung, chẳng lẽ tiểu quan thất phẩm Ma Đắc Dung này là một thanh quan lương lại đáng quý đến vậy?
Nhưng chỉ là phán quan một phủ, phải là nhân tài chưa xuất đầu lộ diện kiểu gì mới khiến một trăm tám mươi quan viên cùng bảo tấu chứ?
Nguyên Thú đế giơ tay lên: "Thái tử, con lui xuống đi."
Thái tử cung kính: "Nhi thần cáo lui."
Thái tử lui ra khỏi điện Văn Đức, không có cách nào thám thính cuộc đối thoại bên trong, hắn nghĩ trong chuyện này có vẻ như còn nhiều ẩn ý, thế là bèn vội vàng tìm môn khách Đông cung đến bàn bạc.
Trong điện Văn Đức, người biết chuyện chỉ có ba người gồm Nguyên Thú đế, Triệu Bá Ung và đại thái giám, Nguyên Thú đế chầm chậm xoay nhẫn ban chỉ, ánh mắt gay gắt vẫn luôn hướng về phía Triệu Bá Ung đang đứng phía dưới, mặt không biến sắc nhưng có thể khiến cho người ta nhìn ra được trong lòng lão đang mưu tính, chỉ là không thể đoán được nội dung mưu kế đó là gì.
Trong điện yên tĩnh đến nỗi chỉ nghe được tiếng hít thở, đại thái giám cúi đầu thấp nhất có thể, bị không khí căng thẳng ép mồ hôi lạnh chảy ròng ròng khắp người, ông ta lặng lẽ quan sát Triệu Bá Ung, phát hiện vị tế chấp này vô cùng thờ ơ, dường như không nhạy bén nhận ra Nguyên Thú đế đang không vui.
Một lúc lâu sau, Nguyên Thú đế mới lên tiếng: "Thừa Giới, ngươi nói xem có nên tha cho Ma Đắc Dung hay không?"
Triệu Bá Ung: "Hồi bệ hạ, Ma Đắc Dung không làm tròn bổn phận, tội đáng muôn chết.
Nhưng nếu như không phải hiền thần lương lại, làm sao có thể xuất hiện một trăm tám mươi bảo tấu của quan viên bốn tỉnh ba mươi tám phủ? Một trăm tám mươi viên quan này không phải cùng một nhóm tiến sĩ, không phải là đồng liêu, không phải bộ hạ cũ cũng chẳng có cùng thầy dạy, nghĩ lại cũng chẳng phải bè đảng gì.
Dù cho có là bè đảng đi nữa, thì ai sẽ vì một tên quan thất phẩm địa phương mà liên danh bảo tấu chỉ để đổi lại nghi ngờ kết bè kết phái của bệ hạ chứ?"
Nguyên Thú đế: "Ý ngươi là muốn tha cho Ma Đắc Dung? Không nhường đường theo luật còn gây ảnh hưởng đến quan lương là tội phải cách chức lưu đày, huống chi phần cống phẩm mà hắn phụ trách cũng vì hắn mà bị chìm, vừa là điềm báo chẳng may, lại khiến cho Thái hậu thất vọng đau lòng, trẫm không chém đầu hắn đã là khai ân rồi, còn muốn tha ư? Đúng là nằm mơ!"
Triệu Bá Ung: "Nếu như Ma Đắc Dung mất bò mới lo làm chuồng, lấy công chuộc tội, trái lại là có thể tha cho."
Nguyên Thú đế: "Mất bò mới lo làm chuồng? Vậy chẳng lẽ phải lệnh cho người đi mò hai trăm thạch lương thực và đá Anh Đức vận chuyển từ Quảng Đông bị chìm xuống sông kia sao?"
Triệu Bá Ung: "Tri phủ Hồng Châu gửi tin tới, nói là Ma Đắc Dung đã giải tán hết gia sản tổ tiên, phân cho Quảng Đông để vận chuyển một lượng đá Anh Đức thượng đẳng tới lần nữa, còn nữa, hắn đã ra giá cao để mua lại hơn hai triệu thạch lương thực từ thương nhân Lưỡng Chiết, trước mắt đã đến phủ kinh đô, đều đang ở ngoài thành, chuẩn bị qua cửa cống."
"Hửm?" Nguyên Thú đế hứng thú, nghiêng người hỏi: "Hắn còn có bản lĩnh này sao? Vận chuyển cả đoạn đường đó, người vật tiền đều sẽ hao phí không ít.
Tiêu hết cả gia tài...! Ồ, gia sản tổ tiên không tệ nhỉ."
Triệu Bá Ung: "Giang Nam giàu có sung túc, nền móng dày dặn, là chuyện bình thường."
Nguyên Thú đế: "Cũng làm đến nước này rồi, trẫm không thể không khai ân."
Triệu Bá Ung quỳ xuống: "Bệ hạ thánh minh."
Nguyên Thú đế: "Thôi, dù sao cũng là sinh nhật của Thái hậu, không thích hợp thấy máu, nếu như đã đại xá thiên hạ thì cứ để cho Ma Đắc Dung nhận mấy phần ân điển.
Nếu như có thể làm cho Thái hậu vui vẻ, trẫm không chỉ không phạt hắn mà còn phải thưởng cho hắn nữa."
Triệu Bá Ung lại nói: "Bệ hạ nhân từ!"
Nguyên Thú đế: "Tấu chương hôm nay cũng đã đưa đến rồi, ngươi lui đi làm việc đi."
Triệu Bá Ung: "Thần cáo lui."
Từng bước lui về sau, lúc đến cửa điện gặp được Khang vương vừa tới, hai bên chào hỏi lẫn nhau xong thì kẻ ra người vào.
Khang vương đi mấy bước, bỗng nhiên quay đầu nhìn Triệu Bá Ung dần đi xa, suy đi ngẫm lại một hồi mới bước đến bên cạnh Nguyên Thú đế: "Hoàng huynh, lễ thọ của các nơi đã đưa vào cung cất giữ tại điện Từ Minh.
Thần đệ vẫn còn đang thu thập vài trò ca hát tạp kỹ trong dân gian, rất thú vị, không ít đạt quan quý nhân trong phủ đều mời vào phủ mình biểu diễn, nghe nói gần đây bọn họ sửa soạn bài Bát Tiên chúc thọ nhưng còn chưa bắt đầu diễn.
Thần đệ đã tự chủ trương mời bọn họ đến diễn vào ngày sinh nhật Thái hậu."
Nguyên Thú đế: "Đệ có lòng rồi."
Dường như Khang vương thấy lòng Nguyên Thú đế không an, bất giác cảm thấy kì lạ, vị hoàng huynh này của ông là người hiếu thuận nhất, năm ngoái vì không thể tổ chức sinh nhật lớn cho Thái hậu nên luôn canh cánh trong lòng, đến năm nay tự thân lo liệu mọi chuyện, sao lúc này lại tỏ ra không quan tâm chứ?
"Hoàng huynh có tâm sự sao? Là vì có liên quan đến Triệu tế chấp ư?"
Nguyên Thú đế gõ bàn: "Đệ lên đây xem những tấu chương này đi."
Khang vương biết lắng nghe, xem kĩ ba bản tấu chương cảm giác không đúng lắm, vội vàng xem qua thêm sáu bảy bản nữa, trong lòng rất khiếp sợ: "Đều là cầu tha thứ giúp cho Ma Đắc Dung? Ma Đắc Dung này là kẻ nào mà lại có bản lĩnh lớn như vậy, có thể chỉ trong mười ngày đã vận động được một lượng đá Anh Đức nữa từ Quảng Đông, lại còn mua đến tận hai triệu thạch lương thực từ lương thương Lưỡng Chiết nữa chứ!"
Nguyên Thú đế: "Trẫm để ý trong danh sách bảo tấu này, một trăm tám mươi người có đủ từ Lưỡng Chiết, Phúc Kiến đến bốn tỉnh Quảng Đông."
Khang vương: "Là bè đảng sao? Nhưng hắn chỉ là một Phán quan thất phẩm thôi, sao có thể khiến cho nhiều người bảo tấu cho hắn như vậy? Dù có là cấp trên của hắn, Tri phủ Hồng Châu Quản Văn Tân, đệ cũng không tin là có nhiều người đứng ra bảo tấu như vậy."
Nguyên Thú đế: "Biết đá Anh Đức từ Quảng Đông tiến cống đến là dưới danh nghĩa của ai không?"
"Mượn danh Quản Văn Tân, thực ra là hiếu tâm của Xương Bình công chúa —— " Khang vương cả kinh, ngạc nhiên nhìn ánh mắt tối sầm của Nguyên Thú đế: "Là Xương Bình?"
Nguyên Thú đế không đáp, nghĩa là ngầm thừa nhận.
Khang vương vẫn thấy lạ: "Quản Văn Tân và Ma Đắc Dung đều là người của Xương Bình? Chỉ vì một Ma Đắc Dung mà để lộ con át chủ bài của mình ư, trưởng công chúa không ngu ngốc đến vậy đâu."
Nguyên Thú đế: "Hẳn là đang ra oai với ta.
Người ở Giang Tây mà lại có thể đưa đá Anh Đức từ Quảng Đông tới, nhân dịp đại thọ Thái hậu, ngoài mặt tiến cống lễ thọ nhưng thật ra là muốn mượn danh Quản Văn Tân để bán thảm với Thái hậu hơn.
Đá Anh Đức bị chìm là chuyện bất ngờ, nhưng đối với Xương Bình mà nói không chừng là cơ hội tốt, còn đối với Thái hậu đó là táng gia bại sản, người mà Thái hậu hao tâm lo nghĩ cho không phải là Ma Đắc Dung, mà là Xương Bình."
Khang vương cẩn thận hỏi: "Trưởng công chúa hành động như vậy là có ý gì?"
Nguyên Thú đế gằn ra hai chữ: "Hồi kinh."
Khang vương lập tức phản ứng: "Triệu tế chấp sẽ không đồng ý."
Nguyên Thú đế: "Cho nên từ sáng sớm lão ta đã tự mình đưa tấu chương kia đến cho trẫm, từng câu từng chữ chối bỏ trách nhiệm giúp Ma Đắc Dung, nhưng thật ra nhắc nhở ta, đây đều là kiệt tác của Xương Bình! Lão ta còn ghi hận, phàm là tìm được cơ hội, chắc chắn sẽ cắn chết Xương Bình."
Khang vương: "Nhưng trưởng công chúa ra chiêu này, chỉ sợ Thái hậu thương con gái mà nóng lòng."
Nguyên Thú đế: "Đệ vẫn chưa hiểu điểm chính ở đâu."
Khang vương: "Hả?"
Nguyên Thú đế thở dài nặng nề: "Trẫm thật sự không muốn ầm ĩ ngươi chết ta sống với em gái ruột của mình, càng không hy vọng Thái hậu thêm đau lòng.
Chỉ mong...!Chỉ mong sẽ không xuất hiện thêm bất cứ trắc trở nào nữa."
Khang vương không hiểu rõ nỗi phiền muộn của Nguyên Thú đế lắm, chỉ cho rằng ông đang lo lắng Thái hậu sốt ruột vì cô con gái kia, đến lúc đó không cách nào cân bằng quan hệ của Xương Bình trưởng công chúa và Triệu phủ được nữa.
***
Cuối tháng chín, sinh nhật Thái hậu, mọi việc đều ổn thỏa, trăm quan đến chúc phúc.
Trước điện Từ Minh là một sân đầy cúc vàng, cung nhân qua lại liên tục, vũ đài được dựng sẵn, gánh hát đã xuất hiện trên đài biểu diễn, phía dưới có mệnh phụ và trăm quan ngồi xem.
Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư cũng ở trong số đó, thỉnh thoảng lặng lẽ rỉ tai nhau đôi ba câu.
Lúc Thái hậu đi vào, tất cả mọi người đều quỳ xuống chúc mừng đại thọ của Thái hậu.
Thái hậu cười ha hả lệnh cho mọi người đứng dậy, không cần đa lễ, vì vậy bữa tiệc mừng thọ cũng trở nên thoải mái hơn một chút.
Lúc này có một nhóm người nối đuôi nhau vào, đi đầu là một thanh niên tư thế oai hùng rạng rỡ, phía sau là một đám thái giám đẩy chiếc xe ba gác theo sau, trên xe có một cái lồ ng cao bằng đầu người, trong lồ ng nhốt một con công trắng đẹp như hư ảo.
Triệu Bạch Ngư: "Nghe nói lục hoàng tử từ Định Châu mang điềm lành hồi kinh chúc thọ Thái hậu từ sớm, chắc đó là hắn rồi."
Tiếng y vừa dứt, thanh niên oai hùng đã nghiêm túc quỳ xuống trước mặt Thái hâu hành đại lễ: "Tôn nhi ra mắt hoàng tổ mẫu, chúc hoàng tổ mẫu phúc như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn."
Hắn khấu đầu chín cái xong mới bái kiến Nguyên Thú đế, lễ nghi đầy đủ đến mức không ai bắt lỗi được.
Con cháu đều đã ở bên người, hôm nay Thái hậu vui vẻ đến nỗi cười không khép miệng được, quay đầu hỏi Nguyên Thú đế: "Nghe nói kỳ thạch từ Giang Tây gửi tới đã đưa vào cung rồi?"
Nguyên Thú đế thừa biết bà sẽ hỏi, liền cung kính trả lời: "Đang ở trong vườn hoa nhỏ của điện Từ Minh, bố trí thành một hòn non bộ.
Nếu ngài muốn xem, con đưa ngài sang đó."
Thái hậu: "Vậy đến xem thử đi."
Triệu Bạch Ngư ở khá xa, không nghe thấy rõ đoạn đối thoại của bọn họ, chỉ có thể đưa mắt nhìn họ rời đi.
Hoắc Kinh Đường hỏi y: "Muốn đi xem không?"
Triệu Bạch Ngư: "Trái phải đều là chuyện nhà của bọn họ, ta không có hứng thú." Đang nói, ánh mắt sắc bén thoáng thấy đại thái giám bên cạnh Nguyên Thú đế đang rẽ vào từ cửa viện phía trước, đi về hướng vườn hoa điện Từ Minh, Ma Đắc Dung đang đi theo sau lưng lão.
"Sao lại là hắn?"
Hoắc Kinh Đường: "Hửm?"
Triệu Bạch Ngư: "Là Ma Đắc Dung."
Hoắc Kinh Đường nghĩ ngợi một lúc: "Ma Đắc Dung, thuyền chở đá Anh Đức bị lật, kéo luôn cống phẩm và quan lương chìm xuống sông? Không phải hắn đang ở đại lao bộ Hình chờ chịu phạt sao?"
"Chuyện xảy ra trong vòng mười ngày, hắn bán gia sản lấy tiền vận chuyển đá Anh Đức và hơn hai triệu thạch quan lương đền bù cho triều đình." Triệu Bạch Ngư cau mày: "Theo lý mà nói, với phẩm cấp của hắn còn chẳng đủ tư cách tham gia thọ yến, huống chi lần này chỉ là lấy công chuộc tội, không thể nào mà triệu vào cung được."
Nếu có thể được triệu vào cung vào ngày thọ yến diễn ra, trăm phần trăm là chuẩn bị khen thưởng.
Hoắc Kinh Đương ngẫm lại: "Ma Đắc Dung là người của Xương Bình công chúa chăng?"
Triệu Bạch Ngư hít một hơi: "Nửa năm nay cái người luôn ở thao trường đánh đấm là chàng phải không đó? Ta không nói gì hết, sao chàng biết được?"
Hoắc Kinh Đường: "Bí mật quan trường kiểu gì cũng bị gió lùa ra, vốn là không nhiều người biết, nhưng mười ngày nửa tháng trước vụ chìm thuyền nổ ra, ít nhất là chuyện Xương Bình công chúa mượn danh nghĩa của Quản Văn Tân tiến cống đá Anh Đức, có không muốn biết cũng bị ép biết.
Nhưng lý do có thể khiến cho Thái hậu mất bình tĩnh, không màng hiềm khích năm xưa triệu kiến Ma Đắc Dung, chỉ có Xương Bình công chúa thôi."
Triệu Bạch Ngư: "Chàng nghĩ Xương Bình công chúa dựng nên vở kịch này là vì cái gì?"
"Trừ cúi đầu lấy lòng muốn được hồi kinh thì còn có thể là gì?" Hoắc Kinh Đường dùng một tay chống cằm, nhìn y chằm chằm: "Tiểu lang quan tâm đến thế, trong lòng đang phiền muộn sao?"
Triệu Bạch Ngư cười khẽ, lắc đầu một cái: "Ta và công chúa cũng chẳng có tình mẹ con gì."
Hoắc Kinh Đường xoa đầu Triệu Bạch Ngư một cái, bàn tay trượt dần ra sau gáy khẽ vuốt v e, âm thầm an ủi y: "Tất nhiên là Thái hậu rất mong công chúa được hồi kinh, dù gì cũng còn tình cảm mẹ con, chỉ tiếc quan hệ giữa Triệu phủ và công chúa khó mà giảng hòa.
Chỉ cần bệ hạ còn chú ý đến mặt mũi nhà họ Triệu thì sẽ không có chuyện Thái hậu không thức thời mà triệu Xương Bình công chúa về."
Trong lòng Thái hậu, sức nặng của Hoàng đế rất lớn, đại cuộc càng nặng hơn.
"Có điều việc gửi đá Anh Đức chỉ là quá trình làm tan băng, từ từ toan tính, cùng lắm là hai ba năm nữa thôi, hạ một chính lệnh đại xá thiên hạ là có thể nghênh đón người về rồi."
Triệu Bá Ung phải bị ép thành cái dạng gì mới có thể đồng ý để Xương Bình công chúa trở lại? Triệu Bạch Ngư không nghĩ ra nguyên nhân, cũng lười nghĩ thêm nữa bèn ném hết mọi thứ ra sau đầu.
Đến khi sinh nhật kết thúc, trăm quan xuất cung, đại thái giám bên người Nguyên Thú đế cũng vừa kịp lúc đến tiễn Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư rời khỏi điện Từ Minh.
Hoắc Kinh Đường đi thẳng vào vấn đề: "Thái hậu triệu kiến Ma Đắc Dung à, đã thưởng cho hắn cái gì?"
Đại thái giám cười xòa: "Cũng không có gì, chỉ có một lâm viên ở Giang Nam, ngàn khoảnh ruộng tốt, ngoài ra còn có một ít vàng bạc châu báu, bệ hạ thì cất nhắc hắn lên làm Thông phán Hồng Châu."
Vàng bạc châu báu là Thái hậu ban thưởng, e là Thái hậu mượn Ma Đắc Dung thưởng cho công chúa, trái lại không ngờ Nguyên Thú đế thẳng thừng trạc hắn làm Thông phán.
Dù cho Ma Đắc Dung có là hoạn quan hay vốn là Phán quan thất phẩm đi chăng nữa, thì hắn cũng không đủ tư cách đảm nhiệm chức Thông phán, phải biết triều đình có lệnh, trải qua ba lần đảm nhiệm Thông phán là sẽ được thăng làm Tri phủ.
Tri phủ một châu, đại quan ngũ phẩm, biết bao nhiêu tiến sĩ cả đời cũng kiếm không ra cái chức quan này.
Chẳng lẽ Nguyên Thú đế biết Ma Đắc Dung là người của Xương Bình công chúa, để trấn an Thái hậu, cũng để Xương Bình công chúa ở Hồng Châu có người săn sóc cho nên mới đặc biệt đề bạt Ma Đắc Dung?
Hoặc cũng có thể là Xương Bình công chúa giúp ông quản thúc Lưỡng Giang đang gặp phiền toái, mới trạc Ma Đắc Dung lên chức để giúp bà ta?
Triệu Bạch Ngư gãi mũi, không phát biểu thắc mắc của mình.
Đại thái giám đưa hai vị Phật ra khỏi điện Từ Minh xong liền co chân chạy nhanh như ngựa, còn lại hai người đi trên đường rời cung, đi một lúc thì gặp được đoàn người của lục hoàng tử.
Trong số đó còn có Trịnh Sở Chi, sau khi trải qua đại án Hoài Nam, Trịnh Sở Chi đã tự hạ thấp mình đi rất nhiều, ít ra lúc gặp Triệu Bạch Ngư lão ta còn biết tỏ ra khiêm nhường.
Lục hoàng tử chủ động tiến lên phía trước, khuôn mặt tuấn tú treo thêm nụ cười không khiến người ta ghét bỏ chút nào: "Tiểu lục ra mắt đường ca, ra mắt đường tẩu." Ánh mắt hắn quét nhanh qua mặt Triệu Bạch Ngư rồi sau đó nhìn Hoắc Kinh Đường, vô cùng thẳng thắn, thậm chí thoải mái hơn lúc ở với Đông cung nhiều.
(*) Đường ca, đường tẩu là anh họ, chị dâu họ.
Hoắc Kinh Đường gật đầu: "Bây giờ về phủ sao?"
Lục hoàng tử: "Nhị ca và Ngũ ca hẹn đệ đến Đông cung tụ họp, đường ca đường tẩu có muốn đi cùng đệ không?"
Hoắc Kinh Đường: "Không đi, ngươi đi đi."
Triệu Bạch Ngư: "Ta nghe theo tiểu quận vương."
Lục hoàng tử: "Vậy thôi.
Hôm nay đệ mới về đến kinh đô, đi gặp phụ hoàng trước rồi mới đến chỗ mẫu phi, vốn còn muốn đến chùa Tôn Chính gặp tam ca, nhưng không có chiếu không thể vào." Nhắc đến anh cả, trên mặt hắn thoáng qua vẻ ảm đạm, "Phụ hoàng không cho đệ đến chùa Tôn Chính."
Hoắc Kinh Đường: "Đợi mấy ngày nữa, bệ hạ bớt giận thì ngươi lại đến thỉnh chỉ.
Dù sao cũng là anh em, tình cảm tay chân sâu đậm, suy cho cùng thì bệ hạ cũng không thể nhẫn tâm.
Có điều chùa Tôn Chính xưa nay là nơi nhốt tội nhân hoàng thất, ngươi vừa mới về thì đừng nên đi, tránh xui xẻo."
Lục hoàng tử cười đáp: "Đệ ở Định Châu giết địch, máu tươi đầy mình, nào có sợ xui? Xui xẻo đến gần đệ chắc sẽ bị sát khí xé nát hết thôi." Đến cuối đường cung chuẩn bị mỗi người một ngã, hắn nhìn Triệu Bạch Ngư nói: "Đường tẩu vang danh thanh thiên cao nghĩa, Chiêu Vấn nghe như sấm đánh bên tai, hôm nay nhìn thấy mới tỏ danh bất hư truyền.
Ngày khác Chiêu Vấn mời đường tẩu uống trà, chỉ mong đường tẩu không chê bai cách xử sự của đệ."
Triệu Bạch Ngư: "Mỗ lấy làm vinh hạnh."
Hai bên chia tay, đi thêm một quãng đường dài nữa.
Triệu Bạch Ngư: "Mở miệng ngậm miệng là gọi đường tẩu, đúng là kì quặc."
Hoắc Kinh Đường: "Ta cũng sắp hoài nghi người ngủ cùng ta không phải tiểu lang rồi, lần tới bảo nó đổi cách gọi đi."
"Ngày mai ta nghỉ làm, còn chàng?"
"Tiểu lang định làm gì?"
"Ta định đến chùa Bảo Hoa dự tiệc chay hàng tháng, nếu như chàng không đến, một mình ta đi cũng chẳng vui."
"Ngày mai ta đưa nhóm trinh sát lượn quanh mấy ngọn núi ở ngoại ô đến chiều, vẫn còn đủ thời gian."
Bóng của hai người bị ánh sáng kéo dài trên con đường rời cung, xa dần rồi biến mất.
***
Đầu mùa đông, thời tiết chuyển lạnh.
Thuyền hàng trên sông đã giảm bớt, Triệu Bạch Ngư ở trong Nha môn Thủy vận xem sổ sách, Nghiên Băng vẫn luôn chuyên tâm học tập trong phủ bỗng chạy vào, thở hồng hộc nói: "Ngũ lang, Kỷ, Kỷ phu nhân cầu kiến!"
Triệu Bạch Ngư: "Kỷ phu nhân nào? Là phu nhân của Kỷ tri phủ sao?"
Nghiên Băng gật đầu lia lịa.
Triệu Bạch Ngư vội vàng đứng dậy: "Không phải bà ấy đã theo Kỷ đại nhân đến nhậm chức ở Giang Tây rồi sao?" Trước khi rời đi, y dặn dò Lưu đô giám làm cho xong việc ở Nha môn hôm nay, sau đó theo Nghiên Băng chạy về phủ quận vương.
"Kỷ tri phủ bị đưa vào nhà lao rồi, chuẩn bị áp tải về kinh đô, Kỷ phu nhân đến tìm ngài cứu mạng đó!"
"Chuyện gì đã xảy ra vậy?"
"Cụ thể thì ta không biết, hình như là tham ô."
Triệu Bạch Ngư biết rõ tính tình của Kỷ Hưng Bang, huống chi trước đây y đã cố tình nhắc nhở, lẽ ra ông ấy không gặp chuyện mới đúng, chẳng lẽ đi sai nước cờ, sập bẫy mất rồi?
Không lãng phí thời gian đoán mò vớ vẩn, Triệu Bạch Ngư chạy không dừng bước về phủ quận vương, nhìn thấy Kỷ phu nhân mặt mũi vương đầy gió bụi, tiều tụy ngồi trong phòng khách, người phụ nữ vừa thấy mặt Triệu Bạch Ngư là lập tức lao đến quỳ rạp trước chân y.
"Tiểu Triệu đại nhân, xin ngài hãy cứu lão gia nhà tôi với!"
Triệu Bạch Ngư đỡ người dậy: "Đứng lên nói chuyện đã.
Nghiên Băng, mau mang nước ấm tới, gọi người chuẩn bị chút đồ ăn.
Tẩu tử, chị đừng hoảng sợ, lại đây ngồi nói cẩn thận lại cho tôi nghe đi."
Kỷ phu nhân không màng quan tâm xem Triệu Bạch Ngư có đồng ý giúp mình hay không, hoảng loạn bận rộn giải thích: "Lão gia nhà tôi bị người ta tố cáo tham ô năm trăm ngàn lượng bạc trắng, chứng cứ rành rành, không tài nào phản bác được, nhà cửa tài sản bị tịch thu hết, gia quyến đi theo cũng gặp nạn, lúc quan sai tới tra hỏi là tôi đang ở trong chùa gần phủ dâng hương mới thoát được một kiếp, cầu mong ngài nể nang tình cảm trong quá khứ, giúp lão gia chúng tôi một tay."
"Tham ô năm trăm ngàn lượng là tội chết! Nhưng tôi biết Kỷ đại nhân làm việc công bằng chính trực, lúc đảm nhiệm Tri phủ kinh đô đã rất tận trung tận trách, chưa từng thu hối lộ, chưa từng tham lam một chút gì.
Tôi không tin chỉ chưa đến một năm mà Kỷ đại nhân đã đổi tính." Triệu Bạch Ngư chọn từ tốt khen Kỷ Hưng Bang, trấn an Kỷ phu nhân đang thất thần, "Chị nói tiếp đi, là có người hãm hại sao?"
Kỷ phu nhân nghẹn ngào chực khóc, lão gia gặp chuyện như sấm sét chợt giáng xuống, đúng là bất ngờ không kịp đề phòng, từ lúc đó đến nay, bà tìm bạn cũ của lão gia ở khắp nơi mà không ai giúp đỡ, thậm chí đã tìm người nhà mẹ để nhờ vả, nhưng ngay cả người nhà mẹ cũng mắng lão gia hồ đồ, căn bản không ai tin rằng ông ấy vô tội, chỉ có Triệu Bạch Ngư, bộ hạ cũ ngày xưa của lão gia là vẫn luôn tin tưởng ông không làm ra chuyện như vậy.
"Đó là một cái bẫy do thương bang ở Giang Tây sắp đặt!" Kỷ phu nhân cắn răng nói: "Lão gia phụ trách Chuyển vận sứ cũng quản chút thủy vận, nhậm chức chưa bao lâu là thương bang địa phương đã kéo đến kết giao.
Lão gia chỉ muốn vượt qua ba năm nhiệm kỳ an ổn, chỉ sợ lui tới quá mật thiết với bọn họ sẽ tạo thành cớ bị hại, ông ấy mới từ chối lời mời gọi của thương bang nhiều lần, chặn thuyền buôn ở bến thuyền cũng chỉ là vì chức trách thôi, nào ngờ đắc tội đám thương nhân Giang Tây đó.
Lão gia biết thương bang địa phương thế lớn, đã cẩn thận lắm rồi, cũng dặn dò chúng tôi nhất định không được nhận bất kì quà tặng nào, dù cho có là một cây vải, một thùng dầu, tất cả đều phải từ chối hết!"
"Vậy, vậy sao lại trúng kế?"
"Cẩn thận mấy cũng có sai sót thôi, đám người đó lợi dụng đủ đường! Cậu cũng biết lão gia thích tranh chữ, thích nhất là luyện chữ, ở nơi đó có một học nho gửi bái thiếp đến, nói muốn dùng văn kết giao, dùng chữ làm bạn.
Lúc gặp mặt cũng khen tranh chữ của lão gia có hình có thần, trên đời này không ai sánh bằng, không biết ngại yêu cầu lão gia viết mười chữ "phó" cho hắn.
Chưa đến nửa tháng đã lại tới cửa, nói mười chữ "phó" trong tay hắn đều đã được bán đi với giá nghìn vàng, dâng tiền lên cầu xin lão gia viết thêm chữ."
Triệu Bạch Ngư cau mày, không phải y từng nói với Kỷ đại nhân phải viết chữ như thế nào rồi sao, trong lòng ông ấy không tính toán à?
Kỷ phu nhân cười khổ: "Ông ấy phải viết như thế nào, trong lòng sao có thể không tính đến? Nhưng người đẩy chữ là học nho địa phương, người mua chữ còn chẳng biết người viết chữ là ai, cũng chẳng đến cầu xin việc gì, dù chẳng tìm được chút lợi lộc gì trong chữ mà vẫn vung tiền như rác, trừ thật lòng thưởng thức chữ của ông ấy, thì còn có nguyên nhân nào khác nữa? Thân mình trong cuộc, u mê không tỉnh ngộ, càng lún càng sâu, đến cuối cùng giấy Lạc Dương đắt*, một chữ nghìn vàng!"
(*) Nguyên văn: Lạc Dương chỉ quý, ý chỉ tác phẩm nổi tiếng một thời
"Một chữ ngàn lượng bạc trắng?"
"Là ngàn lượng vàng!" Kỷ phu nhân rũ vai: "Chưa đến nửa năm đã lên đến năm trăm ngàn lượng, thương bang tìm tới tận cửa muốn ông ấy mở cửa thủy vận.
Nhưng không biết vì cớ gì, ông ấy đến phủ công chúa một chuyến, trở về đã bắt đầu dặn dò việc về sau.
Tôi thấy hoang mang lắm, ban đầu cũng thấy không có gì, chỉ biết lão gia đã từ chối yêu cầu của thương bang Giang Tây, không lâu sau đó thì có người tố cáo ông ấy bán chữ là thu hối lộ trá hình."
Nghe xong toàn bộ câu chuyện, Triệu Bạch Ngư biết Kỷ đại nhân đã bị sập bẫy rồi.
Thương bang địa phương thế lớn, bọn họ còn giống như chúa đất hơn là quan địa phương nữa, Kỷ đại nhân không nể mặt, tất nhiên bọn họ sẽ nghĩ đủ cách đá Kỷ đại nhân xuống ngựa, đổi một kẻ nghe lời hơn bước lên.
Đời trước nằm trên giường bệnh nhàm chán nên y đã đọc hết một quyển lịch sử cổ trên dưới năm ngàn năm, trong đó cũng có rất nhiều bài viết về nguồn gốc của việc hối lộ và nhận hối lộ.
Có tổng cộng bốn cách hối lộ và nhận hối lộ, một là hối lộ dựa trên giao tình (nhã hối), hai là hối lộ trong buôn bán (thương hối), ba là trộm cắp, bốn là bá quyền, cũng có thể thay chữ "hối" trong đó thành chữ "tham", hai ý sau thuộc về các triều đại đầu nữa, lấy quyền thế mà tham ô, nội dung không nói nhiều về kĩ thuật.
Ví như lúc trước, Tào ti Hoài Nam Tư Mã Kiêu lợi dụng chức quyền che giấu đồng ruộng phì nhiêu, ruộng tốt rồi trắng trợn vơ vét thuế đất của dân, tham ô một số tiền thuế cực lớn, đó cũng là một loại tham nhờ ăn cắp.
Còn nhã hối chính là mượn văn chơi tranh chữ, dùng những vật này để tiến hành hối lộ tham ô, sau đó lấy cớ này hãm hại thanh quan lương lại, khiến cho bọn họ không thể không bị buộc tội thông đồng làm bậy.
Kỷ đại nhân đã rơi vào cái bẫy "nhã hối", chiêu này nếu như thả vào triều Đại Thanh tham ô thành tính thì không phải ngữ cao siêu gì, nhưng bây giờ, chỉ tiện tay tung một chiêu là đã có thể tiêu diệt những quan lại không hợp tác rồi.
==.