Trong doanh trại của Huyền Kỵ, Công Tôn Du sắp xếp gọn gàng hành lý ít ỏi của mình, sau đó đi dạo vòng quanh doanh trại.
Hắn và mấy ám vệ đều là những người do Điện hạ dẫn đến. Nhưng Tông Lạc vẫnchưa giao phó an bài gì, đã cưỡi Chiếu Dạ Bạch đi mất, nhất thời MụcNguyên Long không biết phải xử lý thế nào, nên chỉ để họ vào lều, cấthành lý rồi phân phát túi ngủ.
Sau khi Tông Lạc rời đi, khoảng một giờ sau, mưa đã tạnh.
Cơn mưa này đến nhanh và đi cũng nhanh. Dường như cơn mưa xối xả chỉ là cơn giận của Lôi Công Điện Mẫu, sau khi tâm trạng của họ tốt lên thì trờiquang mây tạnh.
Gần chiều đã bắt đầu mưa, hiện tại cũng chỉ qua chạng vạng, bữa tối trong quân vẫn chưa chuẩn bị.
"Đi dọn dẹp một chút, mang củi khô ra ngoài."
Sau khi mưa tạnh, binh lính Huyền Kỵ lần lượt bước ra khỏi lều.
Mục Nguyên Long chỉ huy họ một cách thành thạo, quét sạch mặt đất đầy nước, sau đó dựng lên kệ đựng thức ăn đơn giản, treo lên nồi nhỏ. Bên dướichất củi, để vô mồi lửa, ngọn lửa liền cháy lên.
Các kỵ binhthành thạo đổ nước lạnh vào nồi, chờ cho nước sôi lên, sau đó lấy ra một số thứ giống như bột từ trong bao tải cho vào nước nóng, kế đó mở mộtcái hũ, đổ ra một ít dưa muối.
Công Tôn Du thích thú quan sát cảnh này, đột nhiên hỏi:
"Cái thứ giống bột này là gì vậy?"
Binh sĩ giật mình, thấy hắn là người Điện hạ đưa đến, nên mới trả lời:
"Hồi đại phu, đây là bánh canh, được làm từ bột mì."
Nghe đến bột mì, ánh mắt Công Tôn Du lập tức lóe lên sự hiểu biết.
Người Đại Uyên chủ yếu ăn gạo, còn bột mì là thứ được Tây Vực truyền vào ĐạiHoang mấy trăm năm trước, được trồng nhiều ở A Quốc, là lương thực chính của người A Quốc.
A Quốc chiếm giữ một trong những địa hìnhthuận lợi nhất trong các nước Đại Hoang, sản lượng lương thực vô cùngphong phú, từng rất huy hoàng, làm bá chủ quần hùng giống như Vệ Quốc.Hơn một trăm năm trước, quân đội còn đánh đến chân hoàng thành Đại Uyên, đẩy nhanh tiến trình dời đô của Tông gia.
Tục ngữ nói rất đúng,'con lạc đà gầy còn to hơn ngựa', khi xưa Uyên Đế ngự giá thân chinhxuất quân đánh A Quốc, không ai coi trọng. Kết quả không ngờ, Đại Uyênđã thật sự đoạt được kho lương thực phong phú này.
"Vậy còn cái này?" Hắn chỉ vào cái hũ không rõ thứ gì và hỏi.
"Đó là dưa muối, là thứ do Điện hạ nghiên cứu ra." Binh sĩ nói: "Hành quânmang muối phiền phức, cho thêm chút này vào là có thể nấu được một nồicanh, quân đội Đại Uyên đều ăn như vậy. Nhưng thứ này rất mặn, chỉ cóthể cho một ít vào nồi, sau đó nấu ăn."
Là dưa muối sao? Công Tôn Du có chút ngạc nhiên.
Trước nay cũng có những người chuyên làm dưa muối, mục đích là để bảo quảnrau củ mùa đông. Nhưng thường thì chỉ muối chua theo cách thông thường,những gia đình khá giả đều sẽ cất vào hầm, không dùng cách này làm mấtđi hương vị.
Chiếc hũ dưa muối này khác với dưa muối mà Công TônDu quen thuộc, bên trong bỏ thêm rất nhiều muối, giúp giải quyết vấn đềmuối ăn.
Muối là đặc sản của Việt Quốc, trước đây thương nhân Đại Uyên đều phải nhập hàng từ nước Việt, sau khi đánh chiếm nước Việt thìtrong quân không bao giờ thiếu muối, nhưng cách làm này vẫn được giữlại.
Công Tôn Du không hỏi thêm nữa mà bắt đầu suy nghĩ.
Từ xưa đến nay, vấn đề binh lương luôn là một vấn đề nan giải.
Người ta thường nói, 'binh mã chưa động, lương thảo tiến trước'. Nếu lươngthảo không đủ, thì dù quân đội có dũng mãnh đến đâu cũng đành vô phươngđánh trận.
Mặc dù hắn học nghệ ở ẩn sĩ thế gia, nhưng không có nghĩa là không biết gì về tình hình thiên hạ.
Công Tôn Du biết rõ, những năm trước, khi Đại Uyên còn chưa đánh chiếm đượcnhiều quốc gia như hiện tại, mỗi lần xuất quân, Tam hoàng tử đều dẫntheo Huyền Kỵ tấn công thành trì hoặc cướp kho lương của quân địch.
Bởi vì kỵ binh tính cơ động cao, hơn nữa Tam hoàng tử còn có thể dự đoánchính xác vị trí kho lương của quân địch, nên hầu như lần nào cũng giành được chiến thắng.
Quân địch bị cướp lương thảo, trước tiên làlòng quân đại loạn, ít nhất không thể giằng co kéo dài với Huyền Kỵ.Điều này tạo điều kiện cho quân chủ lực áp trận ở phía sau, đã có rấtnhiều trận chiến nổi danh được tạo ra theo cách đó.
Công Tôn Dulà một người có tham vọng, hắn giỏi về chiến lược quân sự, mặc dù hắn có thể an phận thủ thường ở triều đình, nhưng hắn rất muốn tham gia vàonhững thành tựu chưa từng có trong lịch sử, để phát huy năng lực củamình.
Từ cái nhìn đầu tiên khi nhìn thấy Tông Lạc ở Bách gia yến, hắn đã biết vị Điện hạ này không phải dạng tầm thường. Sự trung thànhcủa hắn cũng giống như một canh bạc.
Thời gian chứng minh, hắn đã cược đúng.
Từ một Hoàng tử không được Uyên Đế coi trọng, đến Thái tử chỉ dưới một người, sau đó được phép nắm quyền quân sự.
Tình yêu của bạo quân dành cho người kế thừa của mình vô cùng rõ ràng, thể hiện trong từng cử chỉ.
Sau chuyện Tông Thừa Tứ, hoàng thành dậy sóng, thế lực sau lưng của Ngũ hoàng tử và Lục hoàng tử đều ngoan ngoãn như chim cút.
Theo suy nghĩ của hắn, Uyên Đế đồng ý cho Thái tử lúc này rời đi, thực ra có ý muốn cho Thái tử mà mình coi trọng không bị cuốn vào cuộc chiến trong hoàng thất.
Dựa theo những tin tức được lan truyền trước khi hắn rời đi, Uyên Đế đã quyết tâm một lần nữa tái hiện cảnh tượng huyết tẩyhoàng thành, để củng cố danh hiệu bạo quân của mình, đồng thời dọn đường cho người kế vị.
Hắn có thể chắc chắn, đợi vài tháng sau, khiĐiện hạ dẫn quân hồi triều, những thế lực hỗn loạn trong hoàng thành đãsớm bị tiêu diệt.
Điện hạ cái gì cũng tốt, chỉ là không đủ tànnhẫn để diệt cỏ tận gốc. Hơn nữa, bản thân Điện hạ vốn là một danhtướng, đến chiến trường phát huy hết khả năng của mình, dù sao cũng tốthơn nhiều so với đấu tranh chính trị dơ bẩn ở Hoàng thành.
KhiCông Tôn Du đang chìm trong suy nghĩ, phỏng đoán ý định của những ngườicầm quyền, bỗng nhiên có một giọng nói quen thuộc và ngập ngừng vang lên trước mặt: "Ngươi... không phải là mưu sĩ đi theo Tứ hoàng huynh sao?"
Tông Thuỵ Thần đứng trước mặt hắn, tay cầm kẹp than, thần sắc nghi hoặc.
Công Tôn Du thấp giọng đáp: "Bát hoàng tử."
Gặp Tông Thuỵ Thần ở đây, quả thực là ngoài dự liệu của Công Tôn Du.
Nhưng nghĩ lại, với sự yêu mến và coi trọng của Điện hạ dành cho Tông ThuỵThần, ngay cả quân doanh Huyền Kỵ cũng có thể tự do ra vào, còn chỉ định Mục phó tướng làm thầy dạy võ, thì cũng không có gì lạ.
Điềuquan trọng là, nhìn bộ dạng này của Tông Thuỵ Thần, hắn biết Điện hạkhông định để Tông Thuỵ Thần lần đầu ra chiến trường phải đối mặt đaokiếm, chắc sẽ chỉ làm một số công việc hậu cần, chẳng hạn như chuyểngiao văn thư, cảm nhận một chút bầu không khí trên chiến trường là được.
Trước đây, khi còn theo Tông Thừa Tứ, Công Tôn Du cũng đã từng gặp Tông ThuỵThần vài lần. Lúc Tứ hoàng tử giới thiệu hắn với Tông Thuỵ Thần, còn nói hắn là một mưu sĩ rất giỏi.
Tuy nhiên, nhìn vẻ mặt này của TôngThuỵ Thần, rõ ràng chúa công vẫn chưa nói ra chuyện hắn là gián điệp,nên Tông Thuỵ Thần cảm thấy nghi ngờ là chuyện đương nhiên.
Vìvậy, Công Tôn Du không chút do dự bắt đầu bịa chuyện: "Tứ điện hạ gặpchuyện như vậy, môn khác như tại hạ cũng phải tìm chủ khác. May mắn được Thái tử điện hạ trọng dụng, tại hạ mới đi theo."
"Thì ra là vậy."
Tông Thuỵ Thần gật đầu, đặt kẹp than xuống, quay người trở về lều trại.
......
Khi các binh lính Huyền Kỵ đã ăn xong bữa tối, dập tắt lửa đốt trong trại,chỉ còn lại một đống lửa ở trung tâm, Mục Nguyên Long vẫn chưa thấy Điện hạ trở về.
Đang lúc rảnh rỗi, hắn nhìn vào lều chỉ huy, tức thì lo lắng.
Nói chung, lều chỉ huy chỉ dành cho chủ tướng, các phó tướng thì ở trong lều nhỏ.
Tuy nhiên hiện giờ, mặc dù Điện hạ đã tiếp nhận quyền chỉ huy, nhưng Bắc Ninh Vương vẫn còn trong quân.
Cả hai đều là những tướng lĩnh danh chấn đại hoang, Thánh thượng lại không có chỉ thị gì khác, không thể đối xử với Bắc Ninh Vương như một phótướng. Thậm chí, đãi ngộ dành cho vị Vương gia này không thể thấp hơnchủ tướng.
Nhưng mà.... khi rời khỏi hoàng thành, bọn chỉ mang theo một lều lớn.
Cũng không thể cho Điện hạ và Bắc Ninh Vương ở chung một lều được.
Trong lúc Mục Nguyên Long đang rầu rĩ, bên ngoài doanh trại vang lên tiếng vó ngựa.
"Điện hạ! Ngài đã trở về!"
Lúc hắn nhanh chóng bước ra ngoài, bạch y Thái tử vừa vặn rời lưng Chiếu Dạ Bạch, vỗ nhẹ lên bờm ngựa xinh đẹp của nó như một phần thưởng.
Sau một chặng đường chạy như bay cùng nội lực mạnh mẽ hông khô, y phục trên người Tông Lạc chỉ hơi ẩm nhẹ, phần trên đã ráo. Tuy nhiên, bất kỳ aitinh ý cũng có thể nhìn ra dấu vết bị ngấm nước mưa, cùng với những mảng bùn lớn bị pha loãng.
"Tam ca, ca đã trở về!"
Tông Thuỵ Thần ôm một thùng thư ánh mắt sáng lên, vội vàng chạy tới, lướt qua sau lưng hắn: "Bắc Ninh Vương đâu?"
Tông Lạc nhàn nhạt nói: "Không biết."
Quả thực hắn không biết.
Trên đồng cỏ bao la, sau khi nói ra câu trả đũa "Bởi vì ngươi yêu ta", TôngLạc nằm ngửa trên mặt đất, giữ nguyên nụ cười châm chọc, chờ đợi phảnứng của Ngu Bắc Châu.
Giống như câu "Chẳng lẽ ngươi thích ta"ngày trước, chủ ý là để khiến Ngu Bắc Châu khó chịu, nhưng khi nói ra,dường như cũng đang tự hỏi chính mình.
Tuy nhiên, câu nói sau lại là một câu khẳng định, mang tính công kích mạnh hơn, có thể khiến tổnthương người khác, đánh trúng tim đen.
Nhưng bất ngờ là, Ngu Bắc Châu không nói gì cả.
Y không hề thẹn quá hoá giận phản bác lại hắn, cũng không điên cuồng phá nát mọi thứ.
Nam nhân áo đỏ chỉ giữ nguyên tư thế đè hắn xuống, im lặng hồi lâu, như một pho tượng.
Cuối cùng y đứng dậy, nhìn Tông Lạc thật sâu, rồi quay đầu đi mất.
Từ đầu đến cuối, y không nói một lời.
Điều này khiến cho Tông Lạc cảm thấy thật hoang đường.
Nửa năm trước, sau khi Ngu Bắc Châu nói cho hắn biết sự thật về thân thếcủa mình, hắn cũng giống vậy, sững sờ ngây ngốc, không nói một lời quaylưng bỏ chạy.
Bây giờ, mọi thứ đang lặp lại, chỉ là vị trí đã đảo ngược.
Sự khác biệt duy nhất chính là biểu cảm của Ngu Bắc Châu rất bình tĩnh.Tông Lạc lại không biết y rời đi vì lý do gì, nhưng chắc chắn không phải là trạng thái đau khổ tràn đầy như lúc trước của mình.
Nhìn phản ứng của Ngu Bắc Châu, rõ ràng là hắn đã thành công đánh trúng tử huyệt của đối phương.
Tông Lạc lẽ ra nên cảm thấy vui mừng.
Nhưng hắn lại không có tâm trạng tốt như hắn tưởng, mà thay vào đó là một cảm giác vô cùng khó chịu.
Trước khi nói ra câu đó, hắn đã chắc chắn rằng Ngu Bắc Châu đang trốn tránh,sợ hãi, lo lắng, cứng đầu. Rõ ràng đã sớm yêu, nhưng lại sợ thừa nhận.
Sau khi nói ra, Tông Lạc mới nhận ra rằng mình có lẽ đã sai ở đâu đó.
Nhưng chính xác là sai ở đâu, hắn cũng không hiểu được.
Mục Nguyên Long thì thầm hỏi: "Vậy có cần thuộc hạ phái người đi tìm không?"
"Không cần." Tông Lạc khoát tay, không nói thêm gì nữa.
Hắn bước vào lều lớn.
Trong lều không có nhiều đồ, rõ ràng là Ngu Bắc Châu khi rời khỏi hoành thành mang theo đồ rất ít.
Trong lúc mơ màng, Tông Lạc chợt nhớ ra một câu mình từng nói.
"Thừa nhận đi, Ngu Bắc Châu, ngươi căn bản không hề tự tin như bề ngoài thể hiện."
Đến tận lúc này, Tông Lạc mới hiểu ra.
Sau khi hắn nói nói xong, ánh mắt của Ngu Bắc Châu... không phải là sự đấutranh của kẻ trốn tránh khi đối mặt với hiện thực, mà giống như sự mônglung.
Giống như một đứa trẻ chưa bao giờ có được món đồ chơi, lần đầu tiên được người ta chỉ ra sự tồn tại của món đồ chơi đó, cúi đầuphát hiện ra tay mình trống rỗng, khuôn mặt hiện lên vẻ mờ mịt.
Hắn và mấy ám vệ đều là những người do Điện hạ dẫn đến. Nhưng Tông Lạc vẫnchưa giao phó an bài gì, đã cưỡi Chiếu Dạ Bạch đi mất, nhất thời MụcNguyên Long không biết phải xử lý thế nào, nên chỉ để họ vào lều, cấthành lý rồi phân phát túi ngủ.
Sau khi Tông Lạc rời đi, khoảng một giờ sau, mưa đã tạnh.
Cơn mưa này đến nhanh và đi cũng nhanh. Dường như cơn mưa xối xả chỉ là cơn giận của Lôi Công Điện Mẫu, sau khi tâm trạng của họ tốt lên thì trờiquang mây tạnh.
Gần chiều đã bắt đầu mưa, hiện tại cũng chỉ qua chạng vạng, bữa tối trong quân vẫn chưa chuẩn bị.
"Đi dọn dẹp một chút, mang củi khô ra ngoài."
Sau khi mưa tạnh, binh lính Huyền Kỵ lần lượt bước ra khỏi lều.
Mục Nguyên Long chỉ huy họ một cách thành thạo, quét sạch mặt đất đầy nước, sau đó dựng lên kệ đựng thức ăn đơn giản, treo lên nồi nhỏ. Bên dướichất củi, để vô mồi lửa, ngọn lửa liền cháy lên.
Các kỵ binhthành thạo đổ nước lạnh vào nồi, chờ cho nước sôi lên, sau đó lấy ra một số thứ giống như bột từ trong bao tải cho vào nước nóng, kế đó mở mộtcái hũ, đổ ra một ít dưa muối.
Công Tôn Du thích thú quan sát cảnh này, đột nhiên hỏi:
"Cái thứ giống bột này là gì vậy?"
Binh sĩ giật mình, thấy hắn là người Điện hạ đưa đến, nên mới trả lời:
"Hồi đại phu, đây là bánh canh, được làm từ bột mì."
Nghe đến bột mì, ánh mắt Công Tôn Du lập tức lóe lên sự hiểu biết.
Người Đại Uyên chủ yếu ăn gạo, còn bột mì là thứ được Tây Vực truyền vào ĐạiHoang mấy trăm năm trước, được trồng nhiều ở A Quốc, là lương thực chính của người A Quốc.
A Quốc chiếm giữ một trong những địa hìnhthuận lợi nhất trong các nước Đại Hoang, sản lượng lương thực vô cùngphong phú, từng rất huy hoàng, làm bá chủ quần hùng giống như Vệ Quốc.Hơn một trăm năm trước, quân đội còn đánh đến chân hoàng thành Đại Uyên, đẩy nhanh tiến trình dời đô của Tông gia.
Tục ngữ nói rất đúng,'con lạc đà gầy còn to hơn ngựa', khi xưa Uyên Đế ngự giá thân chinhxuất quân đánh A Quốc, không ai coi trọng. Kết quả không ngờ, Đại Uyênđã thật sự đoạt được kho lương thực phong phú này.
"Vậy còn cái này?" Hắn chỉ vào cái hũ không rõ thứ gì và hỏi.
"Đó là dưa muối, là thứ do Điện hạ nghiên cứu ra." Binh sĩ nói: "Hành quânmang muối phiền phức, cho thêm chút này vào là có thể nấu được một nồicanh, quân đội Đại Uyên đều ăn như vậy. Nhưng thứ này rất mặn, chỉ cóthể cho một ít vào nồi, sau đó nấu ăn."
Là dưa muối sao? Công Tôn Du có chút ngạc nhiên.
Trước nay cũng có những người chuyên làm dưa muối, mục đích là để bảo quảnrau củ mùa đông. Nhưng thường thì chỉ muối chua theo cách thông thường,những gia đình khá giả đều sẽ cất vào hầm, không dùng cách này làm mấtđi hương vị.
Chiếc hũ dưa muối này khác với dưa muối mà Công TônDu quen thuộc, bên trong bỏ thêm rất nhiều muối, giúp giải quyết vấn đềmuối ăn.
Muối là đặc sản của Việt Quốc, trước đây thương nhân Đại Uyên đều phải nhập hàng từ nước Việt, sau khi đánh chiếm nước Việt thìtrong quân không bao giờ thiếu muối, nhưng cách làm này vẫn được giữlại.
Công Tôn Du không hỏi thêm nữa mà bắt đầu suy nghĩ.
Từ xưa đến nay, vấn đề binh lương luôn là một vấn đề nan giải.
Người ta thường nói, 'binh mã chưa động, lương thảo tiến trước'. Nếu lươngthảo không đủ, thì dù quân đội có dũng mãnh đến đâu cũng đành vô phươngđánh trận.
Mặc dù hắn học nghệ ở ẩn sĩ thế gia, nhưng không có nghĩa là không biết gì về tình hình thiên hạ.
Công Tôn Du biết rõ, những năm trước, khi Đại Uyên còn chưa đánh chiếm đượcnhiều quốc gia như hiện tại, mỗi lần xuất quân, Tam hoàng tử đều dẫntheo Huyền Kỵ tấn công thành trì hoặc cướp kho lương của quân địch.
Bởi vì kỵ binh tính cơ động cao, hơn nữa Tam hoàng tử còn có thể dự đoánchính xác vị trí kho lương của quân địch, nên hầu như lần nào cũng giành được chiến thắng.
Quân địch bị cướp lương thảo, trước tiên làlòng quân đại loạn, ít nhất không thể giằng co kéo dài với Huyền Kỵ.Điều này tạo điều kiện cho quân chủ lực áp trận ở phía sau, đã có rấtnhiều trận chiến nổi danh được tạo ra theo cách đó.
Công Tôn Dulà một người có tham vọng, hắn giỏi về chiến lược quân sự, mặc dù hắn có thể an phận thủ thường ở triều đình, nhưng hắn rất muốn tham gia vàonhững thành tựu chưa từng có trong lịch sử, để phát huy năng lực củamình.
Từ cái nhìn đầu tiên khi nhìn thấy Tông Lạc ở Bách gia yến, hắn đã biết vị Điện hạ này không phải dạng tầm thường. Sự trung thànhcủa hắn cũng giống như một canh bạc.
Thời gian chứng minh, hắn đã cược đúng.
Từ một Hoàng tử không được Uyên Đế coi trọng, đến Thái tử chỉ dưới một người, sau đó được phép nắm quyền quân sự.
Tình yêu của bạo quân dành cho người kế thừa của mình vô cùng rõ ràng, thể hiện trong từng cử chỉ.
Sau chuyện Tông Thừa Tứ, hoàng thành dậy sóng, thế lực sau lưng của Ngũ hoàng tử và Lục hoàng tử đều ngoan ngoãn như chim cút.
Theo suy nghĩ của hắn, Uyên Đế đồng ý cho Thái tử lúc này rời đi, thực ra có ý muốn cho Thái tử mà mình coi trọng không bị cuốn vào cuộc chiến trong hoàng thất.
Dựa theo những tin tức được lan truyền trước khi hắn rời đi, Uyên Đế đã quyết tâm một lần nữa tái hiện cảnh tượng huyết tẩyhoàng thành, để củng cố danh hiệu bạo quân của mình, đồng thời dọn đường cho người kế vị.
Hắn có thể chắc chắn, đợi vài tháng sau, khiĐiện hạ dẫn quân hồi triều, những thế lực hỗn loạn trong hoàng thành đãsớm bị tiêu diệt.
Điện hạ cái gì cũng tốt, chỉ là không đủ tànnhẫn để diệt cỏ tận gốc. Hơn nữa, bản thân Điện hạ vốn là một danhtướng, đến chiến trường phát huy hết khả năng của mình, dù sao cũng tốthơn nhiều so với đấu tranh chính trị dơ bẩn ở Hoàng thành.
KhiCông Tôn Du đang chìm trong suy nghĩ, phỏng đoán ý định của những ngườicầm quyền, bỗng nhiên có một giọng nói quen thuộc và ngập ngừng vang lên trước mặt: "Ngươi... không phải là mưu sĩ đi theo Tứ hoàng huynh sao?"
Tông Thuỵ Thần đứng trước mặt hắn, tay cầm kẹp than, thần sắc nghi hoặc.
Công Tôn Du thấp giọng đáp: "Bát hoàng tử."
Gặp Tông Thuỵ Thần ở đây, quả thực là ngoài dự liệu của Công Tôn Du.
Nhưng nghĩ lại, với sự yêu mến và coi trọng của Điện hạ dành cho Tông ThuỵThần, ngay cả quân doanh Huyền Kỵ cũng có thể tự do ra vào, còn chỉ định Mục phó tướng làm thầy dạy võ, thì cũng không có gì lạ.
Điềuquan trọng là, nhìn bộ dạng này của Tông Thuỵ Thần, hắn biết Điện hạkhông định để Tông Thuỵ Thần lần đầu ra chiến trường phải đối mặt đaokiếm, chắc sẽ chỉ làm một số công việc hậu cần, chẳng hạn như chuyểngiao văn thư, cảm nhận một chút bầu không khí trên chiến trường là được.
Trước đây, khi còn theo Tông Thừa Tứ, Công Tôn Du cũng đã từng gặp Tông ThuỵThần vài lần. Lúc Tứ hoàng tử giới thiệu hắn với Tông Thuỵ Thần, còn nói hắn là một mưu sĩ rất giỏi.
Tuy nhiên, nhìn vẻ mặt này của TôngThuỵ Thần, rõ ràng chúa công vẫn chưa nói ra chuyện hắn là gián điệp,nên Tông Thuỵ Thần cảm thấy nghi ngờ là chuyện đương nhiên.
Vìvậy, Công Tôn Du không chút do dự bắt đầu bịa chuyện: "Tứ điện hạ gặpchuyện như vậy, môn khác như tại hạ cũng phải tìm chủ khác. May mắn được Thái tử điện hạ trọng dụng, tại hạ mới đi theo."
"Thì ra là vậy."
Tông Thuỵ Thần gật đầu, đặt kẹp than xuống, quay người trở về lều trại.
......
Khi các binh lính Huyền Kỵ đã ăn xong bữa tối, dập tắt lửa đốt trong trại,chỉ còn lại một đống lửa ở trung tâm, Mục Nguyên Long vẫn chưa thấy Điện hạ trở về.
Đang lúc rảnh rỗi, hắn nhìn vào lều chỉ huy, tức thì lo lắng.
Nói chung, lều chỉ huy chỉ dành cho chủ tướng, các phó tướng thì ở trong lều nhỏ.
Tuy nhiên hiện giờ, mặc dù Điện hạ đã tiếp nhận quyền chỉ huy, nhưng Bắc Ninh Vương vẫn còn trong quân.
Cả hai đều là những tướng lĩnh danh chấn đại hoang, Thánh thượng lại không có chỉ thị gì khác, không thể đối xử với Bắc Ninh Vương như một phótướng. Thậm chí, đãi ngộ dành cho vị Vương gia này không thể thấp hơnchủ tướng.
Nhưng mà.... khi rời khỏi hoàng thành, bọn chỉ mang theo một lều lớn.
Cũng không thể cho Điện hạ và Bắc Ninh Vương ở chung một lều được.
Trong lúc Mục Nguyên Long đang rầu rĩ, bên ngoài doanh trại vang lên tiếng vó ngựa.
"Điện hạ! Ngài đã trở về!"
Lúc hắn nhanh chóng bước ra ngoài, bạch y Thái tử vừa vặn rời lưng Chiếu Dạ Bạch, vỗ nhẹ lên bờm ngựa xinh đẹp của nó như một phần thưởng.
Sau một chặng đường chạy như bay cùng nội lực mạnh mẽ hông khô, y phục trên người Tông Lạc chỉ hơi ẩm nhẹ, phần trên đã ráo. Tuy nhiên, bất kỳ aitinh ý cũng có thể nhìn ra dấu vết bị ngấm nước mưa, cùng với những mảng bùn lớn bị pha loãng.
"Tam ca, ca đã trở về!"
Tông Thuỵ Thần ôm một thùng thư ánh mắt sáng lên, vội vàng chạy tới, lướt qua sau lưng hắn: "Bắc Ninh Vương đâu?"
Tông Lạc nhàn nhạt nói: "Không biết."
Quả thực hắn không biết.
Trên đồng cỏ bao la, sau khi nói ra câu trả đũa "Bởi vì ngươi yêu ta", TôngLạc nằm ngửa trên mặt đất, giữ nguyên nụ cười châm chọc, chờ đợi phảnứng của Ngu Bắc Châu.
Giống như câu "Chẳng lẽ ngươi thích ta"ngày trước, chủ ý là để khiến Ngu Bắc Châu khó chịu, nhưng khi nói ra,dường như cũng đang tự hỏi chính mình.
Tuy nhiên, câu nói sau lại là một câu khẳng định, mang tính công kích mạnh hơn, có thể khiến tổnthương người khác, đánh trúng tim đen.
Nhưng bất ngờ là, Ngu Bắc Châu không nói gì cả.
Y không hề thẹn quá hoá giận phản bác lại hắn, cũng không điên cuồng phá nát mọi thứ.
Nam nhân áo đỏ chỉ giữ nguyên tư thế đè hắn xuống, im lặng hồi lâu, như một pho tượng.
Cuối cùng y đứng dậy, nhìn Tông Lạc thật sâu, rồi quay đầu đi mất.
Từ đầu đến cuối, y không nói một lời.
Điều này khiến cho Tông Lạc cảm thấy thật hoang đường.
Nửa năm trước, sau khi Ngu Bắc Châu nói cho hắn biết sự thật về thân thếcủa mình, hắn cũng giống vậy, sững sờ ngây ngốc, không nói một lời quaylưng bỏ chạy.
Bây giờ, mọi thứ đang lặp lại, chỉ là vị trí đã đảo ngược.
Sự khác biệt duy nhất chính là biểu cảm của Ngu Bắc Châu rất bình tĩnh.Tông Lạc lại không biết y rời đi vì lý do gì, nhưng chắc chắn không phải là trạng thái đau khổ tràn đầy như lúc trước của mình.
Nhìn phản ứng của Ngu Bắc Châu, rõ ràng là hắn đã thành công đánh trúng tử huyệt của đối phương.
Tông Lạc lẽ ra nên cảm thấy vui mừng.
Nhưng hắn lại không có tâm trạng tốt như hắn tưởng, mà thay vào đó là một cảm giác vô cùng khó chịu.
Trước khi nói ra câu đó, hắn đã chắc chắn rằng Ngu Bắc Châu đang trốn tránh,sợ hãi, lo lắng, cứng đầu. Rõ ràng đã sớm yêu, nhưng lại sợ thừa nhận.
Sau khi nói ra, Tông Lạc mới nhận ra rằng mình có lẽ đã sai ở đâu đó.
Nhưng chính xác là sai ở đâu, hắn cũng không hiểu được.
Mục Nguyên Long thì thầm hỏi: "Vậy có cần thuộc hạ phái người đi tìm không?"
"Không cần." Tông Lạc khoát tay, không nói thêm gì nữa.
Hắn bước vào lều lớn.
Trong lều không có nhiều đồ, rõ ràng là Ngu Bắc Châu khi rời khỏi hoành thành mang theo đồ rất ít.
Trong lúc mơ màng, Tông Lạc chợt nhớ ra một câu mình từng nói.
"Thừa nhận đi, Ngu Bắc Châu, ngươi căn bản không hề tự tin như bề ngoài thể hiện."
Đến tận lúc này, Tông Lạc mới hiểu ra.
Sau khi hắn nói nói xong, ánh mắt của Ngu Bắc Châu... không phải là sự đấutranh của kẻ trốn tránh khi đối mặt với hiện thực, mà giống như sự mônglung.
Giống như một đứa trẻ chưa bao giờ có được món đồ chơi, lần đầu tiên được người ta chỉ ra sự tồn tại của món đồ chơi đó, cúi đầuphát hiện ra tay mình trống rỗng, khuôn mặt hiện lên vẻ mờ mịt.
Danh sách chương