May Phúc đi nhanh hơn thường lệ rất nhiều, và cứ vài quãng Billy lại phải chạy mới theo kịp con chó già. Tuy nhiên, khi tới một cầu thang, May Phúc bước chậm lại. Chợt nó rướn thân mình lên, thở phà phà. Trên đầu cầu thang đó, không khí đặc và ấm. Giờ đây, cả hai chúng nó sắp bước vào lãnh địa của gia đình Bloor. Billy rùng mình nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra nếu Manfred thấy nó đứng lớ xớ ngoài cửa phòng.
“Mi có chắc là không nhầm lẫn gì chứ?” Billy hỏi con chó. “Mi có nghĩ là mi lầm rồi không?”
“May Phúc không bao giờ lầm” con chó khịt mũi. “Theo tôi.”
Billy đi theo con chó, dọc theo những hành lang nồng nặc mùi nến, và rồi lại lên một cầu thang khác, đi vào một vùng tối âm u, nơi có những luồng khí chốc chốc lại phòi ra khỏi vách tường rồi nổ một cái “phụp”, với mạng nhện giăng phất phơ, thả từ trên trần nhà vỡ nát, tối thui xuống.
“Mùi dễ chịu,” May Phúc khen.
“Dễ chịu?” Billy lấy làm lạ. “Giống mùi trứng thối... và ... và mùi con gì chết thì có.”
“Dễ chịu mà,” May Phúc lặp lại. Nó đã tới một cánh cửa đen có tay nắm bằng đồng, khổng lồ. Trên cánh cửa có một mảng sơn lớn bị trầy do những đường cắt sâu gây ra, và khi May Phúc giơ một chân lên và bắt đầu cào vào cánh cửa, thì Billy nhận ra những đường cắt ấy là gì. Rõ ràng, con chó già này thường xuyên tới đây.
Sau ba lần cào cửa, một giọng nói khô khốc và ngạo mạn vang lên, “Vô đi!”
Billy vặn nắm đấm cửa và bước vô. Nó nhận ra mình đang ở trong một căn phòng kỳ lạ. Ấnh sáng duy nhất là phát ra từ ngọn lửa cháy trong lò sưởi bằng đá khổng lồ ở cuối phòng. Bên cạnh lò sưởi là một lão già ngồi trên xe lăn. Những sợi tóc trắng, mỏng te hờ hững lòi ra khỏi cái nón lưỡi trai bằng len đỏ; và bên dưới vành nón, khuôn mặt xương xẩu của lão già nhô ra như một cái đầu lâu, cặp mắt lão đen và sâu hoắm, gò má lõm, đôi môi mỏng đến độ gần như không có, tuy nhiên, cái miệng khủng khiếp của lão mỉm cười khi Billy bước vô.
“Lại gần đây, Billy Raven.” Lão già ngoắc một ngón tay dài và cong vẹo.
Billy nuốt nước miếng và tiến lại gần. Hơi nóng trong phòng thật ngột ngạt, và Billy không thể tưởng tượng nổi tại sao lão già còn choàng một chiếc khăn len quanh vai. Nó tiến vài bước vô giữa phòng và dừng lại. May Phúc lịch bịch đi ngang qua nó và nằm xuống cạnh lò sưởi, thở ầm ĩ.
“Trong này nóng quá, thưa ông,” Billy vừa nói vừa há miệng đớp không khí.
“Rồi con sẽ quen thôi. Con cún của ông mê lò sưởi, phải thế không, Percy?” Lão già cười hềnh hệch, đầy vẻ âu yếm với con chó, mặc dù cái cười của lão y như một tiếng rú.
“Cháu tưởng đây la con chó của bà bếp trưởng chứ, thưa ông.”
“Nó cứ nghĩ nó là con chó của bà bếp, bởi vì ông không dẫn nó đi dạo được nữa. Phải vậy không, Percy?”
“Nó nói với cháu tên nó là May Phúc.” Billy liều tiến thêm một chút vào phòng.
“Tên nó là Percival Pettigrew Pennington Pitt. Nhưng nó cứ nghĩ tên nó là May Phúc.” Lão già cười khọc khọc. “Con muốn uống sữa ca cao không, Billy?”
Billy chưa bao giờ uống sữa ca cao cả. Nó không biết món ấy có mùi vị ra sao.
“Món đó nóng và ngọt và cho con cảm giác tuyệt vời.” Một lần nữa, ngón tay cong vẹo của lão già lại ngoắc một cái. “Có một xoong sữa đang hâm nóng trên lửa ấy. Và trên cái bàn con của ông ở đằng kia, con sẽ thấy có hai cái ca màu xanh da trời đựng ca cao và đường, đã được trộn rồi. Con chỉ việc đổ sữa vô đó và khuấy đều, sau đó chúng ta sẽ có một cuộc trò chuyện nho nhỏ thú vị, được chứ, Billy?”
“Vâng,” Billy líu ríu đáp. Nó thực hiện lời chỉ dẫn của lão già, và chẳng bao lâu sau, nó đã ngồi trên một chiếc ghế to, thoải mái, thích thú thưởng thức tách ca cao đầu tiên trong đời.
Lão già uống xì xụp vài ngụm rồi nói, “ Bây giờ thì, Billy à, ông nghĩ là con đang tự hỏi ông là ai. Ông là Bloor Cụ Kỵ. Ha ha!” Tiếng cười nhạo đó nghe thật bệnh hoạn. “ Nhưng ông cũng là Ezekiel. Con có thể gọi ông là ngài Ezekiel.”
“Cám ơn ông,” Billy nói.
“Tốt! Tốt! Nào, Billy, con đang có vấn đề, đúng không? Chưa ai nhận nuôi con, hả? Không ai nhận con. Thật đáng tiếc quá nhỉ? Con có muốn được nhận làm con nuôi không, Billy? Con có muốn có ba mẹ dễ thương, tử tế và vui vẻ không?”
Billy nhổm dậy.
“Muốn!” nó hấp tấp.
Dường như có một thoáng chớp nhỏ trong đôi mắt sâu hoắm của lão già.
“Mi có chắc là không nhầm lẫn gì chứ?” Billy hỏi con chó. “Mi có nghĩ là mi lầm rồi không?”
“May Phúc không bao giờ lầm” con chó khịt mũi. “Theo tôi.”
Billy đi theo con chó, dọc theo những hành lang nồng nặc mùi nến, và rồi lại lên một cầu thang khác, đi vào một vùng tối âm u, nơi có những luồng khí chốc chốc lại phòi ra khỏi vách tường rồi nổ một cái “phụp”, với mạng nhện giăng phất phơ, thả từ trên trần nhà vỡ nát, tối thui xuống.
“Mùi dễ chịu,” May Phúc khen.
“Dễ chịu?” Billy lấy làm lạ. “Giống mùi trứng thối... và ... và mùi con gì chết thì có.”
“Dễ chịu mà,” May Phúc lặp lại. Nó đã tới một cánh cửa đen có tay nắm bằng đồng, khổng lồ. Trên cánh cửa có một mảng sơn lớn bị trầy do những đường cắt sâu gây ra, và khi May Phúc giơ một chân lên và bắt đầu cào vào cánh cửa, thì Billy nhận ra những đường cắt ấy là gì. Rõ ràng, con chó già này thường xuyên tới đây.
Sau ba lần cào cửa, một giọng nói khô khốc và ngạo mạn vang lên, “Vô đi!”
Billy vặn nắm đấm cửa và bước vô. Nó nhận ra mình đang ở trong một căn phòng kỳ lạ. Ấnh sáng duy nhất là phát ra từ ngọn lửa cháy trong lò sưởi bằng đá khổng lồ ở cuối phòng. Bên cạnh lò sưởi là một lão già ngồi trên xe lăn. Những sợi tóc trắng, mỏng te hờ hững lòi ra khỏi cái nón lưỡi trai bằng len đỏ; và bên dưới vành nón, khuôn mặt xương xẩu của lão già nhô ra như một cái đầu lâu, cặp mắt lão đen và sâu hoắm, gò má lõm, đôi môi mỏng đến độ gần như không có, tuy nhiên, cái miệng khủng khiếp của lão mỉm cười khi Billy bước vô.
“Lại gần đây, Billy Raven.” Lão già ngoắc một ngón tay dài và cong vẹo.
Billy nuốt nước miếng và tiến lại gần. Hơi nóng trong phòng thật ngột ngạt, và Billy không thể tưởng tượng nổi tại sao lão già còn choàng một chiếc khăn len quanh vai. Nó tiến vài bước vô giữa phòng và dừng lại. May Phúc lịch bịch đi ngang qua nó và nằm xuống cạnh lò sưởi, thở ầm ĩ.
“Trong này nóng quá, thưa ông,” Billy vừa nói vừa há miệng đớp không khí.
“Rồi con sẽ quen thôi. Con cún của ông mê lò sưởi, phải thế không, Percy?” Lão già cười hềnh hệch, đầy vẻ âu yếm với con chó, mặc dù cái cười của lão y như một tiếng rú.
“Cháu tưởng đây la con chó của bà bếp trưởng chứ, thưa ông.”
“Nó cứ nghĩ nó là con chó của bà bếp, bởi vì ông không dẫn nó đi dạo được nữa. Phải vậy không, Percy?”
“Nó nói với cháu tên nó là May Phúc.” Billy liều tiến thêm một chút vào phòng.
“Tên nó là Percival Pettigrew Pennington Pitt. Nhưng nó cứ nghĩ tên nó là May Phúc.” Lão già cười khọc khọc. “Con muốn uống sữa ca cao không, Billy?”
Billy chưa bao giờ uống sữa ca cao cả. Nó không biết món ấy có mùi vị ra sao.
“Món đó nóng và ngọt và cho con cảm giác tuyệt vời.” Một lần nữa, ngón tay cong vẹo của lão già lại ngoắc một cái. “Có một xoong sữa đang hâm nóng trên lửa ấy. Và trên cái bàn con của ông ở đằng kia, con sẽ thấy có hai cái ca màu xanh da trời đựng ca cao và đường, đã được trộn rồi. Con chỉ việc đổ sữa vô đó và khuấy đều, sau đó chúng ta sẽ có một cuộc trò chuyện nho nhỏ thú vị, được chứ, Billy?”
“Vâng,” Billy líu ríu đáp. Nó thực hiện lời chỉ dẫn của lão già, và chẳng bao lâu sau, nó đã ngồi trên một chiếc ghế to, thoải mái, thích thú thưởng thức tách ca cao đầu tiên trong đời.
Lão già uống xì xụp vài ngụm rồi nói, “ Bây giờ thì, Billy à, ông nghĩ là con đang tự hỏi ông là ai. Ông là Bloor Cụ Kỵ. Ha ha!” Tiếng cười nhạo đó nghe thật bệnh hoạn. “ Nhưng ông cũng là Ezekiel. Con có thể gọi ông là ngài Ezekiel.”
“Cám ơn ông,” Billy nói.
“Tốt! Tốt! Nào, Billy, con đang có vấn đề, đúng không? Chưa ai nhận nuôi con, hả? Không ai nhận con. Thật đáng tiếc quá nhỉ? Con có muốn được nhận làm con nuôi không, Billy? Con có muốn có ba mẹ dễ thương, tử tế và vui vẻ không?”
Billy nhổm dậy.
“Muốn!” nó hấp tấp.
Dường như có một thoáng chớp nhỏ trong đôi mắt sâu hoắm của lão già.
Danh sách chương