XÉT THEO NHIỀU MẶT KHÁC NHAU, thì việc lang thang quanh Rome với Annabeth có thể đã khá tuyệt vời. Họ nắm tay khi tìm đường qua những con phố quanh co, tránh ô tô và đám lái xe vespa điên cuồng, len lỏi qua từng đoàn khách du lịch và lội qua từng biển bồ câu. Ngày nóng lên nhanh chóng. Khi họ đã đi xa khỏi đám khói xăng trên đường chính, không khí có mùi bánh mì nướng và hoa mới cắt.
Họ đi về phía Đại Hí Trường[1] vì đó là cột mốc dễ tìm nhất, nhưng đến được đấy hóa ra lại khó hơn Percy dự đoán. Nhìn từ trên cao, thành phố này đã lớn và lộn xộn rồi, nhưng ở trên mặt đất nó còn rối rắm và mênh mông hơn. Có vài lần, họ đi lạc vào các ngõ cụt. Họ vô tình tìm thấy mấy đài phun nước tuyệt đẹp và những bức tượng khổng lồ.
Annabeth bình phẩm về kiến trúc, nhưng Percy lại để mắt chú ý đến những thứ khác. Có một lần cậu phát hiện thấy một bóng ma màu tím phát sáng—một Thần giữ nhà La Mã[2]—lườm họ từ cửa sổ một tòa chung cư. một lần khác, cậu thấy một người phụ nữ mặc áo chùng trắng—có lẽ là một thần nữ[3] hay một nữ thần—lăm lăm một con dao trông rất gớm ghiếc, lẩn khuất giữa đám cột đổ nát trong một công viên. không có thứ gì tấn công họ, nhưng Percy có càm giác như họ đang bị theo dõi, và những kẻ theo dõi họ chẳng thân thiện gì.
Cuối cùng thì họ cũng đến được khu hí trường, nơi hàng tá những gã mặc trang phục đấu sĩ đang ẩu đả với đám cảnh sát—kiếm nhựa đấu với dùi cui. Percy không rõ vụ đó là sao, nhưng cậu với Annabeth quyết định đi tiếp. Có đôi khi người thường còn quái hơn cả đám quái vật. Họ đi về phía tây, cứ một chốc lại dừng lại hỏi đường đi tới con sông. Percy đã không nghĩ tới vụ đó—duh— ở Ý người ta nói tiếng Ý, mà cậu thì không. Dù vậy, chuyện đó hóa ra lại không phải là vấn đề gì to tát. Vài lần hiếm hoi có người đi trên phố đi về phía hai người và hỏi câu gì đó, Percy chỉ nhìn họ đầy hoang mang và họ đổi sang nói tiếng anh.
Khám phá tiếp theo: người Ý dùng đồng Euro và Percy chả có đồng nào lọai đó. Cậu đã thấy tiếc hùi hụi vì việc này ngay khi cậu thấy một cửa hàng cho khách du lịch bán sô-đa. Lúc đấy đã sắp trưa rồi, trời cực kì nóng và Percy đã bắt đầu ước cậu có một cái tàu chiến đầy Coca ăn kiêng.
Annabeth đã xử lí vấn đề đó. cô lục lọi cái ba lô, lôi cái máy tính xách tay của Daedalus ra, và nhập vào một vài lệnh. một cái thẻ bằng nhựa chui ra từ một cái khe bên cạnh.
Annabeth vung vẩy nó đầy thắng lợi. “Thẻ tín dụng quốc tế. Cho trường hợp khẩn cấp.”
Percy nhìn cô kinh ngạc. “Cậu làm thế nào mà–? Mà thôi. Mình không muốn biết. Cứ tiếp tục tuyệt vời như vậy đi.”
Mấy lon sô-đa có ích, nhưng đến lúc tới được dòng sông Tiber, họ vẫn thấy nóng và mệt. Bờ sông được bao bởi đường kè bằng đá. một đám lộn xộn những kho hàng, căn hộ, cửa hàng và quán cà phê mọc chen chúc nhìn ra mặt sông.
Con sông Tiber thì rộng lớn, uể oải và có màu caramen. một vài cây bách cao lớn rủ bóng xuống hai bên bờ sông. Cây cầu gần đấy nhất trông khá mới, nhưng ngay cạnh nó là một vòng cung đá đổ nát bị đứt đoạn ngay nửa đường nối hai bờ sông—đống phế tích đó hẳn phải được lưu lại từ thời Caesar.
“Nó đây.” Annabeth chỉ cây cầu đá cũ nát. “Mình nhận ra nó trong bản đồ. Nhưng bọn mình làm gì bây giờ?”
Percy mừng là cô đã nói bọn mình. Cậu vẫn chưa muốn phải tách ra với cô. Thực ra, cậu không chắc cậu có thể bắt mình làm vậy khi thời điểm đến. Những câu chữ của Gaea lại vọng lại trong đầu cậu: Ngươi sẽ đơn độc ngã xuống ư? Cậu đăm chiêu nhìn dòng sông, tự hỏi làm cách nào họ mới bắt liên lạc được với Tiberinus. Cậu không thực sự muốn nhảy xuống sông lắm. Trông con sông Tiber này không sạch sẽ hơn bao nhiêu so với Sông Đông ở quê nhà, nơi cậu từng có quá nhiều lần chạm trán với đám tinh linh cáu kỉnh.
Cậu làm dấu ra hiệu về phía một quán cà phê gần đấy có bàn nhìn ra mặt sông. “Đến giờ ăn trưa rồi. Bọn mình thử cái thẻ tín dụng của cậu lần nữa thì sao nhỉ?”
Dù đang là giữa trưa, chỗ này vẫn vắng teo. Họ chọn một bàn ngoài trời bên bờ sông, và một người bồi bàn vội vàng đi tới. Trông anh ta hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người—đặc biệt là khi họ nói muốn ăn trưa.
“Người Mỹ hả?” anh ta hỏi, với một nụ cười đau khổ.
“Vâng.” Annabeth đáp.
“Và tôi muốn một cái pizza,” Percy nói.
anh chàng phục vụ trông như đang cố nuốt một đồng xu euro. “Tất nhiên là vậy rồi,signor. Và để tôi đoán nhé: một cốc Coca-Cola? Có đá?”
“Tuyệt,” Percy nói. Cậu không hiểu tại sao anh chàng lại chìa bộ mặt chua chát ra với cậu như thế. Có phải cậu vừa gọi một cốc Coke xanh đâu chứ.
Annabeth gọi một cái bánh mì kẹp và nước có ga. Sau khi người bồi bàn rời đi, cô cười với Percy. “Mình nghĩ người Ý ăn muộn hơn nhiều. Họ không bỏ đá vào đồ uống. Và họ chỉ làm pizza cho khách du lịch.”
“Ồ.” Percy nhún vai. “Món ngon nhất trong những món Ý, và họ thậm chí không thèm ăn nó?”
“Mình sẽ không nói vậy trước mặt người bồi bàn đâu.”
Họ nắm tay nhau ngang qua bàn. Chỉ nhìn Annabeth trong ánh mặt trời, Percy đã thấy mãn nguyện. Ánh nắng luôn khiến cô trông ấm áp và rực rỡ. Mắt cô nhuộm màu của bầu trời và màu đá cuội lát đường, lần lượt thay đổi giữa hai màu nâu và xanh da trời.
Cậu tự hỏi liệu cậu có nên kể cho Annabeth nghe giấc mơ về Gaea phá hủy Trại Con Lai hay không. Cậu quyết định không làm vậy. cô không cần thêm bất cứ điều gì để mà lo lắng nữa—không phải với những gì cô đang phải đối mặt.
Nhưng nó khiến cậu tự hỏi…chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ không dọa cho đám hải tặc của Chrysaor chạy mất? Percy và Annabeth có thể đã bị xích lại và đưa đến chỗ đám tay sai của Gaea. Máu của hai người sẽ đổ trên những khối đá cổ xưa. Percy đoán thế có nghĩa là Annabeth và cậu sẽ bị áp giải đến Hy Lạp làm vật hiến tế trong một lễ hiến tế lớn kinh khủng nào đó. Nhưng Annabeth và cậu đã từng cùng trải qua kha khá tình huống tồi tệ rồi. Có lẽ họ sẽ nghĩ được ra một kế hoạch tẩu thoát, lập chiến công…và Annabeth sẽ không phải đương đầu với thử thách đơn độc ở Rome này.
Ngươi ngã xuống khi nào không quan trọng, Gaea đã nói vậy.
Percy biết đấy là một điều ước tồi tệ, nhưng cậu gần như tiếc nuối là họ đã không bị bắt trên biển. Ít nhất thì Annabeth và cậu sẽ có thể ở bên nhau.
“Cậu không nên thấy xấu hổ,” Annabeth nói. “Cậu đang nghĩ đến Chrysaor, phải không? Đao kiếm không thể giải quyết mọi vấn đề. Cuối cùng cậu cũng đã cứu được bọn mình đấy thôi.”
Bất chấp bản thân, Percy mỉm cười. “Cậu làm thế nào thế? Lúc nào cậu cũng biết mình đang nghĩ gì.”
“Mình hiểu cậu mà,” cô nói.
Thế mà cậu vẫn thích mình á? Percy muốn hỏi vậy, nhưng cậu kìm lại.
“Percy,” cô nói, “cậu không thể gánh hết gánh nặng của cả nhiệm vụ được. Chuyện đó là không thể. Thế cho nên bọn mình mới có tận bảy người. Và cậu sẽ phải để mình tự đi tìm bức tượng Athena Parthenos một mình.”
“Mình đã rất nhớ cậu,” cậu thú nhận. “Suốt nhiều tháng ròng. một mảnh lớn của đời bọn mình bị lấy mất. Nếu mình lại mất cậu lần nữa–”
Bữa trưa được mang đến. Người bồi bàn trông đã bình tĩnh hơn nhiều. đã chấp nhận thực tế rằng họ là những người Mỹ vô vọng, có vẻ như anh ta đã quyết định tha thứ cho họ và đối đãi lịch sự với họ.
“Cảnh đẹp lắm đấy,” anh ta nói, hất đầu về phía dòng sông. “Mời hai người cứ tận hưởng.”
Khi anh ta đã rời đi, họ ăn trong im lặng. Cái bánh pizza là một miếng hình vuông nhão nhão nhạt hoét chẳng có nhiều phô mai lắm. Có lẽ, Percy nghĩ, đấy chính là lí do vì sao người La Mã không ăn thứ này. Người La Mã tội nghiệp.
“Cậu phải tin mình,” Annabeth nói. Percy suýt nữa thì nghĩ rằng cô đang nói với miếng bánh sandwich, vì cô không nhìn vào mắt cậu. “Cậu phải tin rằng mình sẽ quay về.”
Cậu nuốt thêm một miếng bánh nữa. “Mình tin cậu. Đấy không phải là vấn đề. Nhưng quay về từ đâu chứ?”
Tiếng một chiếc Vespa cắt ngang hai người. Percy nhìn dọc bờ sông và không tin được vào mắt mình. Chiếc xe máy là một mẫu xe cổ: to và có màu xanh da trời nhạt. Người lái xe là một gã bận một bộ vest xám bóng bẩy. Ngồi đằng sau anh ta là một cô gái choàng khăn trùm đầu, hai tay cô ta vòng quanh eo người đàn ông. Họ lách qua mấy cái bàn cà phê, tà tà đi đến rồi đỗ lại bên cạnh Percy và Annabeth.
“Ồ, xin chào,” người đàn ông nói. Giọng anh ta trầm, gần như khàn khàn, như giọng một diễn viên điện ảnh. Tóc anh ta ngắn và được vuốt keo ngược ra đằng sau khuôn mặt góc cạnh của anh ta. anh ta đẹp trai theo kiểu bố-trên-tv của những năm 50. Ngay cả quần áo của anh ta cũng có vẻ cổ điển. Khi anh ta xuống xe, cạp chiếc quần của anh ta cao hơn bình thường rất nhiều, nhưng bằng cách nào đó, trông anh ta vẫn nam tính và phong cách chứ không hề giống một tên đần. Percy không tài nào đoán nổi tuổi anh ta—có lẽ khoảng ba mươi mấy, dù cách ăn mặc và hành xử của anh ta có vẻ hơi giống ông nội.
cô gái bước xuống xe. “Bọn ta đã có buổi sáng đáng yêu nhất trần đời,” cô ta hụt hơi nói.
Trông cô gái khoảng hai mươi mốt tuổi, cũng ăn mặc theo phong cách cổ điển. Chiếc váy in hoa cúc vạn thọ dài tới mắt cá chân và chiếc áo cánh trắng của cô ta được bó vào với nhau bằng một chiếc thắt lưng da lớn, khiến cô ta có vòng eo nhỏ nhất mà Percy từng thấy. Khi cô ta tháo cái khăn trùm đầu ra, mái tóc đen ngắn bồng bềnh của cô ta cuộn thành hình dáng hoàn hảo. cô ta có đôi mắt sẫm màu tinh nghịch và một nụ cười chói lọi. Percy từng gặp những thần nữ còn ít giống yêu tinh hơn cô gái này.
Miếng sandwich của Annabeth rớt khỏi tay cô. “Ôi, thánh thần ơi. Làm—làm thế nào…?”
Trông cô có vẻ sững sờ đến mức Percy thấy cậu nên biết hai người này mới phải.
“Trông hai người đúng là quen thật đấy,” cậu quyết định. Cậu nghĩ cậu đã nhìn thấy họ trên ti vi. Trông có vẻ như họ diễn trong một chương trình cũ ngày trước, nhưng chuyện đó không thể nào đúng được. Họ không hề già đi tẹo nào. Dù vậy, cậu chỉ vào người đàn ông và đoán thử. “anh có phải cái gã trong phim Những Kẻ Điên[4] đó không?”
“Percy!” Annabeth trông có vẻ kinh hãi.
“Gì nào?” cậu vặc. “Mình có xem ti-vi mấy đâu.”
“Đấy là Gregory Peck đấy!” Mắt Annabeth mở lớn, và miệng cô há hốc suốt. “Và…ôithánh thần ơi! Audrey Hepburn! Mình biết bộ phim này. Kỳ nghỉ ở Rome[5]. Nhưng bộ phim đấy có từ những năm 1950. Làm thế nào—?”
“Ồ, cưng à!” cô gái xoay một vòng như một tinh linh của không trung và ngồi xuống bàn của họ. “Ta e rằng em đã nhầm ta với người khác rồi! Tên ta là Rhea Silvia[6]. Ta là mẹ của Remus và Romulus, từ hàng ngàn năm trước kia. Nhưng em thật tốt bụng khi nghĩ rằng trông ta trẻ như thập niên 50. Còn đây là chồng ta…”
“Tiberinus,” Gregory Peck nói, chìa tay ra với Percy một cách đầy nam tính. “Thần Sông Tiber.”
Percy bắt tay anh ta. Người đàn ông có mùi nước hoa cạo râu. Dĩ nhiên, nếu Percy mà là con sông Tiber, thì cậu cũng muốn át cái mùi đi bằng nước hoa cô-lô-nhơ.
“Ơ, chào,” Percy nói. “Lúc nào trông hai người cũng giống diễn viên điện ảnh Mỹ thế à?”
“Vậy sao?” Tiberinus nhíu mày và nghiên cứu quần áo của mình. “Thực ra thì, ta cũng không rõ nữa. Con đường du nhập của văn hóa phương Tây có hai chiều, cậu biết đấy. Rome tác động đến thế giới, nhưng thế giới cũng ảnh hưởng tới Rome. Đúng là dạo này văn hóa Mĩ có vẻ ảnh hưởng khá nhiều. Ta cũng hơi bị loạn trong vài thế kỉ qua.”
“Được rồi,” Percy nói. “Nhưng…hai người đến đây để giúp ạ?”
“Các cô thần nước[7] của ta nói với ta hai người ở đây.” Tiberinus đưa mắt nhìn sang Annabeth. “cô có bản đồ rồi chứ, cô gái thân mến? Cả thư giới thiệu nữa?”
“Ờ…” Annabeth đưa cho anh ta lá thư và chiếc đĩa đồng. cô nhìn chằm chằm vị thần sông chăm chú đến nỗi Percy bắt đầu cảm thấy ghen.
“Th-thế…” cô lắp bắp, “ngài từng giúp những người con khác của Athena trong thử thách này ạ?”
“Ôi, cưng ơi!” cô gái xinh đẹp, Rhea Silvia, đặt tay lên vai Annabeth. “Tiberinus lúc nào cũng giúp ích ấy chứ. anh ấy đã cứu hai đứa con trai Romulus và Remus của ta, và mang hai đứa đến chỗ nữ thần sói Lupa. Sau đấy, khi lão vua Numen đó cố giết ta, Tiberinus đã thương cảm cho ta và lấy ta làm vợ. Kể từ đấy ta đã cùng anh ấy cai trị vương quốc dưới sông. anh ấy thì chỉ mơ màng suốt thôi!”
“Cám ơn em, em yêu,” Tiberinus nói với một nụ cười nhăn nhở, “Và, phải, Annabeth Chase ạ, ta từng giúp đỡ nhiều anh chị em khác của cô…ít nhất là giúp họ bắt đầu hành trình của họ được an toàn. thật tiếc là sau đó họ lại phải chết đau đớn. Rồi, giấy tờ của cô có vẻ hợp lệ. Chúng ta nên đi thôi. Dấu Hiệu Athena đang chờ ở phía trước!”
Percy nắm chặt tay Annabeth—có lẽ hơi chặt quá. “Tiberinus, để cho tôi đi với cô ấy được không. Chỉ một đoạn nữa thôi.”
Rhea Silvia cười ngọt ngào. “Nhưng không được đâu, cậu bé ngốc ạ. Em phải quay lại thuyền của các em và tập hợp các bạn khác của em lại. Đương đầu với bọn khổng lồ ấy! Đường đi sẽ hiện ra trên con dao của cô bạn Piper của em. Annabeth có một con đường khác. cô bé phải đi một mình.”
“Đúng vậy,” Tiberinus nói. “Annabeth phải một mình đối mặt với người canh gác điện thờ. Đó là cách duy nhất. Và Percy Jackson, cậu có ít thời gian hơn cậu thấy để giải cứu người bạn bị nhốt trong cái hạp của cậu. Cậu phải nhanh chân lên.”
Chỗ pizza Percy ăn có cảm giác như xi-măng cục trong dạ dày cậu. “Nhưng–”
“không sao đâu, Percy.” Annabeth siết chặt tay cậu. “Mình cần phải làm chuyện này.”
Cậu mở miệng định lên tiếng. Vẻ mặt của cô đã ngăn cậu lại. cô khiếp sợ, nhưng vẫn cố gắng hết sức để che giấu nỗi sợ đó—vì cậu. Nếu cậu còn cố tranh cãi nữa, cậu sẽ chỉ khiến mọi chuyện khó khăn hơn với cô. Hay tệ hơn, cậu có thể sẽ thuyết phục được cô ở lại. Rồi cô sẽ phải sống với cái ý thức rằng cô đã lùi bước trước thử thách lớn nhất đời mình…giả như họ có sống sót, khi mà Rome sắp bị san bằng và Gaea sắp sửa trỗi dậy rồi phá hủy cả thế giới. Bức tượng Athena chứa đựng chiếc chìa khóa để đánh bại đám khổng lồ. Percy không biết tại sao hay làm thế nào, nhưng Annabeth là người duy nhất có thể tìm được nó.
“Cậu nói đúng,” cậu nói. “Giữ mình an toàn nhé.”
Rhea cười khúc khích như thể đấy là một ý kiến lố bịch. “An toàn á? không có đâu! Nhưng cũng cần thiết. đi nào, Annabeth, cưng. Bọn ta sẽ chỉ cho em chỗ con đường của em bắt đầu. Sau đó, em chỉ còn có một mình thôi.”
Annabeth hôn Percy. cô ngập ngừng, như đang tự hỏi còn gì để nói nữa không. Rồi cô khoác ba lô lên vai và leo lên yên sau chiếc xe máy.
Percy ghét chuyện này. Cậu thà đấu với bất kì con quái vật nào trên đời còn hơn. Cậu thà đấu với Chrysaor lần nữa. Nhưng cậu buộc mình ngồi yên trên ghế và nhìn Annabeth ngồi xe máy đi khuất trên những con phố của Rome, cùng với Gregory Peck và Audrey Hepburn.
[1] Coloseum: Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfiteatro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Rome. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50.000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu thi đấu và trình diễn trước công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70 và 72 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian.
[2] Lar: là thần bảo hộ trong tôn giáo La Mã. Họ có thể là một vị tổ tiên anh hùng hoặc một vị thần coi sóc mùa màng trong vùng lãmh thổ nào đó. Người ta tin rằng các thần Lar trông coi và điều khiển mọi việc xảy ra trong vùng lãnh thổ mà họ cai quản. Những bức tượng thần Lar thường được đặt trên bàn trong các bữa ăn. sự hiện diện của họ là không thể thiếu trong các sự kiện lớn của gia đình La Mã.
[3] nymph: các nữ thần nhỏ gắn với một địa danh hay vùng đất cụ thể nào đó, thường có hình tượng là những cô gái xinh đẹp mang lại sức sống cho cỏ cây hay thiên nhiên của một vùng đất; khác với nữ thần-godess.
[4] Mad Men: một chương trình phim truyền hình dài tập, công chiếu lần đầu vào tháng 7 năm 2007, trên kênh AMC của Mỹ, được sản xuất bởi hãng Lionsgate Television. Phim lấy bối cảnh những năm 1960, trong một công ty quảng cáo không có thật tên là Stirling Cooper, sau là tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce, trên Đại lộ Madison. Trong phim thì “những kẻ điên” là cái tên xuất hiện vào thập niên 50, do chính những người làm quảng cáo trên Đại Lộ Madison tự đặt cho mình. Bộ phim nói về công việc và cuộc sống của Don Draper, giám đốc sáng tạo của Stirling Cooper và người bạn đồng sáng lập tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce của anh ta.
[5] Roman Holiday là một bộ phim hài lãng mạn năm 1953, được đạo diễn và sản xuất bởi William Wyler, biên kịch John Dighton và Dalton Trumbo. Bộ phim này đã giới thiệu hình ảnh của huyền thoại điện ảnh gốc Bỉ Audrey Hepburn (đến với khán giả Mỹ, và bà đã giành được Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn công chúa Ann trong phim này. Hai vai nam chính trong phim do Gregory Peck và Eddie Albert thủ vai.
[6] Rhea Silvia (cũng được viết là Rea Silvia), cũng được gọi là Ilia, là người mẹ huyền thoại của hai anh em sinh đôi Romulus và Remus, những người sáng lập ra thành phố Roma.
Theo truyền thuyết về thành Roma, vị vua Numitor đã bị người em trai của mình đoạt ngôi và con gái của ông là Rhea Silvia bị buộc trở thành trinh nữ để không thể sinh con. Nhưng Rhea Silvia lại mang thai với con của thần Mars. Khi hai đứa bé bị phát hiện, công chúa bị giam vào tù và kết án tử hình, còn lũ trẻ thì bị bỏ trong giỏ trôi trên dòng sông Tiber. May mắn là 2 anh em đã cập bờ sống sót và được một con sói cái (là nữ thần sói Lupa) cho bú cho đến khi chúng được một người chăn cừu cưu mang. Khi biết được câu chuyện quá khứ của mình, 2 anh em đã giết kẻ chiếm ngôi Amulus, khôi phục lại ngôi vị cho Numitor và trở lại nơi được con sói nuôi dưỡng để xây dựng một thành phố. Hình ảnh 2 đứa trẻ trần truồng ngửa mặt bú sữa từ một con sói cái đã trở thành chủ đề xuyên suốt trong nghệ thuật La Mã, và các bức điêu khắc minh họa truyền thuyết này đều xuất hiện tại các bảo tàng trong khu vực.
[7] Nữ thần nước hay Naiads là một trong các thần nữ trong thần thoại Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ναϊάδες là từ ghép giữa từ νάειν có nghĩa “dòng chảy”, và νᾶμα có nghĩa là “nước”) đây là vị thần thường ngự trên đài phun nước, giếng, khe và suối. Họ khác với các thần sông thường sống ở vùng nước tĩnh lặng của hồ đầm lầy, ao và đầm phá. Bản thể của Naiad giống hình thù của một con nhộng nước, vì vậy nếu cơ thể bị khô héo thì họ sẽ phải chết. Naiad phản ánh khát vọng của người Hy Lạp cổ về sự cần thiết của yếu tố nước. Các Naiad có thể trở nên khá nguy hiểm đối với những người bộ hành và những người đi lạc, những cô Naiad sẽ xuất hiện và quyến rũ những khách bộ hành này.
Họ đi về phía Đại Hí Trường[1] vì đó là cột mốc dễ tìm nhất, nhưng đến được đấy hóa ra lại khó hơn Percy dự đoán. Nhìn từ trên cao, thành phố này đã lớn và lộn xộn rồi, nhưng ở trên mặt đất nó còn rối rắm và mênh mông hơn. Có vài lần, họ đi lạc vào các ngõ cụt. Họ vô tình tìm thấy mấy đài phun nước tuyệt đẹp và những bức tượng khổng lồ.
Annabeth bình phẩm về kiến trúc, nhưng Percy lại để mắt chú ý đến những thứ khác. Có một lần cậu phát hiện thấy một bóng ma màu tím phát sáng—một Thần giữ nhà La Mã[2]—lườm họ từ cửa sổ một tòa chung cư. một lần khác, cậu thấy một người phụ nữ mặc áo chùng trắng—có lẽ là một thần nữ[3] hay một nữ thần—lăm lăm một con dao trông rất gớm ghiếc, lẩn khuất giữa đám cột đổ nát trong một công viên. không có thứ gì tấn công họ, nhưng Percy có càm giác như họ đang bị theo dõi, và những kẻ theo dõi họ chẳng thân thiện gì.
Cuối cùng thì họ cũng đến được khu hí trường, nơi hàng tá những gã mặc trang phục đấu sĩ đang ẩu đả với đám cảnh sát—kiếm nhựa đấu với dùi cui. Percy không rõ vụ đó là sao, nhưng cậu với Annabeth quyết định đi tiếp. Có đôi khi người thường còn quái hơn cả đám quái vật. Họ đi về phía tây, cứ một chốc lại dừng lại hỏi đường đi tới con sông. Percy đã không nghĩ tới vụ đó—duh— ở Ý người ta nói tiếng Ý, mà cậu thì không. Dù vậy, chuyện đó hóa ra lại không phải là vấn đề gì to tát. Vài lần hiếm hoi có người đi trên phố đi về phía hai người và hỏi câu gì đó, Percy chỉ nhìn họ đầy hoang mang và họ đổi sang nói tiếng anh.
Khám phá tiếp theo: người Ý dùng đồng Euro và Percy chả có đồng nào lọai đó. Cậu đã thấy tiếc hùi hụi vì việc này ngay khi cậu thấy một cửa hàng cho khách du lịch bán sô-đa. Lúc đấy đã sắp trưa rồi, trời cực kì nóng và Percy đã bắt đầu ước cậu có một cái tàu chiến đầy Coca ăn kiêng.
Annabeth đã xử lí vấn đề đó. cô lục lọi cái ba lô, lôi cái máy tính xách tay của Daedalus ra, và nhập vào một vài lệnh. một cái thẻ bằng nhựa chui ra từ một cái khe bên cạnh.
Annabeth vung vẩy nó đầy thắng lợi. “Thẻ tín dụng quốc tế. Cho trường hợp khẩn cấp.”
Percy nhìn cô kinh ngạc. “Cậu làm thế nào mà–? Mà thôi. Mình không muốn biết. Cứ tiếp tục tuyệt vời như vậy đi.”
Mấy lon sô-đa có ích, nhưng đến lúc tới được dòng sông Tiber, họ vẫn thấy nóng và mệt. Bờ sông được bao bởi đường kè bằng đá. một đám lộn xộn những kho hàng, căn hộ, cửa hàng và quán cà phê mọc chen chúc nhìn ra mặt sông.
Con sông Tiber thì rộng lớn, uể oải và có màu caramen. một vài cây bách cao lớn rủ bóng xuống hai bên bờ sông. Cây cầu gần đấy nhất trông khá mới, nhưng ngay cạnh nó là một vòng cung đá đổ nát bị đứt đoạn ngay nửa đường nối hai bờ sông—đống phế tích đó hẳn phải được lưu lại từ thời Caesar.
“Nó đây.” Annabeth chỉ cây cầu đá cũ nát. “Mình nhận ra nó trong bản đồ. Nhưng bọn mình làm gì bây giờ?”
Percy mừng là cô đã nói bọn mình. Cậu vẫn chưa muốn phải tách ra với cô. Thực ra, cậu không chắc cậu có thể bắt mình làm vậy khi thời điểm đến. Những câu chữ của Gaea lại vọng lại trong đầu cậu: Ngươi sẽ đơn độc ngã xuống ư? Cậu đăm chiêu nhìn dòng sông, tự hỏi làm cách nào họ mới bắt liên lạc được với Tiberinus. Cậu không thực sự muốn nhảy xuống sông lắm. Trông con sông Tiber này không sạch sẽ hơn bao nhiêu so với Sông Đông ở quê nhà, nơi cậu từng có quá nhiều lần chạm trán với đám tinh linh cáu kỉnh.
Cậu làm dấu ra hiệu về phía một quán cà phê gần đấy có bàn nhìn ra mặt sông. “Đến giờ ăn trưa rồi. Bọn mình thử cái thẻ tín dụng của cậu lần nữa thì sao nhỉ?”
Dù đang là giữa trưa, chỗ này vẫn vắng teo. Họ chọn một bàn ngoài trời bên bờ sông, và một người bồi bàn vội vàng đi tới. Trông anh ta hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người—đặc biệt là khi họ nói muốn ăn trưa.
“Người Mỹ hả?” anh ta hỏi, với một nụ cười đau khổ.
“Vâng.” Annabeth đáp.
“Và tôi muốn một cái pizza,” Percy nói.
anh chàng phục vụ trông như đang cố nuốt một đồng xu euro. “Tất nhiên là vậy rồi,signor. Và để tôi đoán nhé: một cốc Coca-Cola? Có đá?”
“Tuyệt,” Percy nói. Cậu không hiểu tại sao anh chàng lại chìa bộ mặt chua chát ra với cậu như thế. Có phải cậu vừa gọi một cốc Coke xanh đâu chứ.
Annabeth gọi một cái bánh mì kẹp và nước có ga. Sau khi người bồi bàn rời đi, cô cười với Percy. “Mình nghĩ người Ý ăn muộn hơn nhiều. Họ không bỏ đá vào đồ uống. Và họ chỉ làm pizza cho khách du lịch.”
“Ồ.” Percy nhún vai. “Món ngon nhất trong những món Ý, và họ thậm chí không thèm ăn nó?”
“Mình sẽ không nói vậy trước mặt người bồi bàn đâu.”
Họ nắm tay nhau ngang qua bàn. Chỉ nhìn Annabeth trong ánh mặt trời, Percy đã thấy mãn nguyện. Ánh nắng luôn khiến cô trông ấm áp và rực rỡ. Mắt cô nhuộm màu của bầu trời và màu đá cuội lát đường, lần lượt thay đổi giữa hai màu nâu và xanh da trời.
Cậu tự hỏi liệu cậu có nên kể cho Annabeth nghe giấc mơ về Gaea phá hủy Trại Con Lai hay không. Cậu quyết định không làm vậy. cô không cần thêm bất cứ điều gì để mà lo lắng nữa—không phải với những gì cô đang phải đối mặt.
Nhưng nó khiến cậu tự hỏi…chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ không dọa cho đám hải tặc của Chrysaor chạy mất? Percy và Annabeth có thể đã bị xích lại và đưa đến chỗ đám tay sai của Gaea. Máu của hai người sẽ đổ trên những khối đá cổ xưa. Percy đoán thế có nghĩa là Annabeth và cậu sẽ bị áp giải đến Hy Lạp làm vật hiến tế trong một lễ hiến tế lớn kinh khủng nào đó. Nhưng Annabeth và cậu đã từng cùng trải qua kha khá tình huống tồi tệ rồi. Có lẽ họ sẽ nghĩ được ra một kế hoạch tẩu thoát, lập chiến công…và Annabeth sẽ không phải đương đầu với thử thách đơn độc ở Rome này.
Ngươi ngã xuống khi nào không quan trọng, Gaea đã nói vậy.
Percy biết đấy là một điều ước tồi tệ, nhưng cậu gần như tiếc nuối là họ đã không bị bắt trên biển. Ít nhất thì Annabeth và cậu sẽ có thể ở bên nhau.
“Cậu không nên thấy xấu hổ,” Annabeth nói. “Cậu đang nghĩ đến Chrysaor, phải không? Đao kiếm không thể giải quyết mọi vấn đề. Cuối cùng cậu cũng đã cứu được bọn mình đấy thôi.”
Bất chấp bản thân, Percy mỉm cười. “Cậu làm thế nào thế? Lúc nào cậu cũng biết mình đang nghĩ gì.”
“Mình hiểu cậu mà,” cô nói.
Thế mà cậu vẫn thích mình á? Percy muốn hỏi vậy, nhưng cậu kìm lại.
“Percy,” cô nói, “cậu không thể gánh hết gánh nặng của cả nhiệm vụ được. Chuyện đó là không thể. Thế cho nên bọn mình mới có tận bảy người. Và cậu sẽ phải để mình tự đi tìm bức tượng Athena Parthenos một mình.”
“Mình đã rất nhớ cậu,” cậu thú nhận. “Suốt nhiều tháng ròng. một mảnh lớn của đời bọn mình bị lấy mất. Nếu mình lại mất cậu lần nữa–”
Bữa trưa được mang đến. Người bồi bàn trông đã bình tĩnh hơn nhiều. đã chấp nhận thực tế rằng họ là những người Mỹ vô vọng, có vẻ như anh ta đã quyết định tha thứ cho họ và đối đãi lịch sự với họ.
“Cảnh đẹp lắm đấy,” anh ta nói, hất đầu về phía dòng sông. “Mời hai người cứ tận hưởng.”
Khi anh ta đã rời đi, họ ăn trong im lặng. Cái bánh pizza là một miếng hình vuông nhão nhão nhạt hoét chẳng có nhiều phô mai lắm. Có lẽ, Percy nghĩ, đấy chính là lí do vì sao người La Mã không ăn thứ này. Người La Mã tội nghiệp.
“Cậu phải tin mình,” Annabeth nói. Percy suýt nữa thì nghĩ rằng cô đang nói với miếng bánh sandwich, vì cô không nhìn vào mắt cậu. “Cậu phải tin rằng mình sẽ quay về.”
Cậu nuốt thêm một miếng bánh nữa. “Mình tin cậu. Đấy không phải là vấn đề. Nhưng quay về từ đâu chứ?”
Tiếng một chiếc Vespa cắt ngang hai người. Percy nhìn dọc bờ sông và không tin được vào mắt mình. Chiếc xe máy là một mẫu xe cổ: to và có màu xanh da trời nhạt. Người lái xe là một gã bận một bộ vest xám bóng bẩy. Ngồi đằng sau anh ta là một cô gái choàng khăn trùm đầu, hai tay cô ta vòng quanh eo người đàn ông. Họ lách qua mấy cái bàn cà phê, tà tà đi đến rồi đỗ lại bên cạnh Percy và Annabeth.
“Ồ, xin chào,” người đàn ông nói. Giọng anh ta trầm, gần như khàn khàn, như giọng một diễn viên điện ảnh. Tóc anh ta ngắn và được vuốt keo ngược ra đằng sau khuôn mặt góc cạnh của anh ta. anh ta đẹp trai theo kiểu bố-trên-tv của những năm 50. Ngay cả quần áo của anh ta cũng có vẻ cổ điển. Khi anh ta xuống xe, cạp chiếc quần của anh ta cao hơn bình thường rất nhiều, nhưng bằng cách nào đó, trông anh ta vẫn nam tính và phong cách chứ không hề giống một tên đần. Percy không tài nào đoán nổi tuổi anh ta—có lẽ khoảng ba mươi mấy, dù cách ăn mặc và hành xử của anh ta có vẻ hơi giống ông nội.
cô gái bước xuống xe. “Bọn ta đã có buổi sáng đáng yêu nhất trần đời,” cô ta hụt hơi nói.
Trông cô gái khoảng hai mươi mốt tuổi, cũng ăn mặc theo phong cách cổ điển. Chiếc váy in hoa cúc vạn thọ dài tới mắt cá chân và chiếc áo cánh trắng của cô ta được bó vào với nhau bằng một chiếc thắt lưng da lớn, khiến cô ta có vòng eo nhỏ nhất mà Percy từng thấy. Khi cô ta tháo cái khăn trùm đầu ra, mái tóc đen ngắn bồng bềnh của cô ta cuộn thành hình dáng hoàn hảo. cô ta có đôi mắt sẫm màu tinh nghịch và một nụ cười chói lọi. Percy từng gặp những thần nữ còn ít giống yêu tinh hơn cô gái này.
Miếng sandwich của Annabeth rớt khỏi tay cô. “Ôi, thánh thần ơi. Làm—làm thế nào…?”
Trông cô có vẻ sững sờ đến mức Percy thấy cậu nên biết hai người này mới phải.
“Trông hai người đúng là quen thật đấy,” cậu quyết định. Cậu nghĩ cậu đã nhìn thấy họ trên ti vi. Trông có vẻ như họ diễn trong một chương trình cũ ngày trước, nhưng chuyện đó không thể nào đúng được. Họ không hề già đi tẹo nào. Dù vậy, cậu chỉ vào người đàn ông và đoán thử. “anh có phải cái gã trong phim Những Kẻ Điên[4] đó không?”
“Percy!” Annabeth trông có vẻ kinh hãi.
“Gì nào?” cậu vặc. “Mình có xem ti-vi mấy đâu.”
“Đấy là Gregory Peck đấy!” Mắt Annabeth mở lớn, và miệng cô há hốc suốt. “Và…ôithánh thần ơi! Audrey Hepburn! Mình biết bộ phim này. Kỳ nghỉ ở Rome[5]. Nhưng bộ phim đấy có từ những năm 1950. Làm thế nào—?”
“Ồ, cưng à!” cô gái xoay một vòng như một tinh linh của không trung và ngồi xuống bàn của họ. “Ta e rằng em đã nhầm ta với người khác rồi! Tên ta là Rhea Silvia[6]. Ta là mẹ của Remus và Romulus, từ hàng ngàn năm trước kia. Nhưng em thật tốt bụng khi nghĩ rằng trông ta trẻ như thập niên 50. Còn đây là chồng ta…”
“Tiberinus,” Gregory Peck nói, chìa tay ra với Percy một cách đầy nam tính. “Thần Sông Tiber.”
Percy bắt tay anh ta. Người đàn ông có mùi nước hoa cạo râu. Dĩ nhiên, nếu Percy mà là con sông Tiber, thì cậu cũng muốn át cái mùi đi bằng nước hoa cô-lô-nhơ.
“Ơ, chào,” Percy nói. “Lúc nào trông hai người cũng giống diễn viên điện ảnh Mỹ thế à?”
“Vậy sao?” Tiberinus nhíu mày và nghiên cứu quần áo của mình. “Thực ra thì, ta cũng không rõ nữa. Con đường du nhập của văn hóa phương Tây có hai chiều, cậu biết đấy. Rome tác động đến thế giới, nhưng thế giới cũng ảnh hưởng tới Rome. Đúng là dạo này văn hóa Mĩ có vẻ ảnh hưởng khá nhiều. Ta cũng hơi bị loạn trong vài thế kỉ qua.”
“Được rồi,” Percy nói. “Nhưng…hai người đến đây để giúp ạ?”
“Các cô thần nước[7] của ta nói với ta hai người ở đây.” Tiberinus đưa mắt nhìn sang Annabeth. “cô có bản đồ rồi chứ, cô gái thân mến? Cả thư giới thiệu nữa?”
“Ờ…” Annabeth đưa cho anh ta lá thư và chiếc đĩa đồng. cô nhìn chằm chằm vị thần sông chăm chú đến nỗi Percy bắt đầu cảm thấy ghen.
“Th-thế…” cô lắp bắp, “ngài từng giúp những người con khác của Athena trong thử thách này ạ?”
“Ôi, cưng ơi!” cô gái xinh đẹp, Rhea Silvia, đặt tay lên vai Annabeth. “Tiberinus lúc nào cũng giúp ích ấy chứ. anh ấy đã cứu hai đứa con trai Romulus và Remus của ta, và mang hai đứa đến chỗ nữ thần sói Lupa. Sau đấy, khi lão vua Numen đó cố giết ta, Tiberinus đã thương cảm cho ta và lấy ta làm vợ. Kể từ đấy ta đã cùng anh ấy cai trị vương quốc dưới sông. anh ấy thì chỉ mơ màng suốt thôi!”
“Cám ơn em, em yêu,” Tiberinus nói với một nụ cười nhăn nhở, “Và, phải, Annabeth Chase ạ, ta từng giúp đỡ nhiều anh chị em khác của cô…ít nhất là giúp họ bắt đầu hành trình của họ được an toàn. thật tiếc là sau đó họ lại phải chết đau đớn. Rồi, giấy tờ của cô có vẻ hợp lệ. Chúng ta nên đi thôi. Dấu Hiệu Athena đang chờ ở phía trước!”
Percy nắm chặt tay Annabeth—có lẽ hơi chặt quá. “Tiberinus, để cho tôi đi với cô ấy được không. Chỉ một đoạn nữa thôi.”
Rhea Silvia cười ngọt ngào. “Nhưng không được đâu, cậu bé ngốc ạ. Em phải quay lại thuyền của các em và tập hợp các bạn khác của em lại. Đương đầu với bọn khổng lồ ấy! Đường đi sẽ hiện ra trên con dao của cô bạn Piper của em. Annabeth có một con đường khác. cô bé phải đi một mình.”
“Đúng vậy,” Tiberinus nói. “Annabeth phải một mình đối mặt với người canh gác điện thờ. Đó là cách duy nhất. Và Percy Jackson, cậu có ít thời gian hơn cậu thấy để giải cứu người bạn bị nhốt trong cái hạp của cậu. Cậu phải nhanh chân lên.”
Chỗ pizza Percy ăn có cảm giác như xi-măng cục trong dạ dày cậu. “Nhưng–”
“không sao đâu, Percy.” Annabeth siết chặt tay cậu. “Mình cần phải làm chuyện này.”
Cậu mở miệng định lên tiếng. Vẻ mặt của cô đã ngăn cậu lại. cô khiếp sợ, nhưng vẫn cố gắng hết sức để che giấu nỗi sợ đó—vì cậu. Nếu cậu còn cố tranh cãi nữa, cậu sẽ chỉ khiến mọi chuyện khó khăn hơn với cô. Hay tệ hơn, cậu có thể sẽ thuyết phục được cô ở lại. Rồi cô sẽ phải sống với cái ý thức rằng cô đã lùi bước trước thử thách lớn nhất đời mình…giả như họ có sống sót, khi mà Rome sắp bị san bằng và Gaea sắp sửa trỗi dậy rồi phá hủy cả thế giới. Bức tượng Athena chứa đựng chiếc chìa khóa để đánh bại đám khổng lồ. Percy không biết tại sao hay làm thế nào, nhưng Annabeth là người duy nhất có thể tìm được nó.
“Cậu nói đúng,” cậu nói. “Giữ mình an toàn nhé.”
Rhea cười khúc khích như thể đấy là một ý kiến lố bịch. “An toàn á? không có đâu! Nhưng cũng cần thiết. đi nào, Annabeth, cưng. Bọn ta sẽ chỉ cho em chỗ con đường của em bắt đầu. Sau đó, em chỉ còn có một mình thôi.”
Annabeth hôn Percy. cô ngập ngừng, như đang tự hỏi còn gì để nói nữa không. Rồi cô khoác ba lô lên vai và leo lên yên sau chiếc xe máy.
Percy ghét chuyện này. Cậu thà đấu với bất kì con quái vật nào trên đời còn hơn. Cậu thà đấu với Chrysaor lần nữa. Nhưng cậu buộc mình ngồi yên trên ghế và nhìn Annabeth ngồi xe máy đi khuất trên những con phố của Rome, cùng với Gregory Peck và Audrey Hepburn.
[1] Coloseum: Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfiteatro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Rome. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50.000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu thi đấu và trình diễn trước công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70 và 72 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian.
[2] Lar: là thần bảo hộ trong tôn giáo La Mã. Họ có thể là một vị tổ tiên anh hùng hoặc một vị thần coi sóc mùa màng trong vùng lãmh thổ nào đó. Người ta tin rằng các thần Lar trông coi và điều khiển mọi việc xảy ra trong vùng lãnh thổ mà họ cai quản. Những bức tượng thần Lar thường được đặt trên bàn trong các bữa ăn. sự hiện diện của họ là không thể thiếu trong các sự kiện lớn của gia đình La Mã.
[3] nymph: các nữ thần nhỏ gắn với một địa danh hay vùng đất cụ thể nào đó, thường có hình tượng là những cô gái xinh đẹp mang lại sức sống cho cỏ cây hay thiên nhiên của một vùng đất; khác với nữ thần-godess.
[4] Mad Men: một chương trình phim truyền hình dài tập, công chiếu lần đầu vào tháng 7 năm 2007, trên kênh AMC của Mỹ, được sản xuất bởi hãng Lionsgate Television. Phim lấy bối cảnh những năm 1960, trong một công ty quảng cáo không có thật tên là Stirling Cooper, sau là tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce, trên Đại lộ Madison. Trong phim thì “những kẻ điên” là cái tên xuất hiện vào thập niên 50, do chính những người làm quảng cáo trên Đại Lộ Madison tự đặt cho mình. Bộ phim nói về công việc và cuộc sống của Don Draper, giám đốc sáng tạo của Stirling Cooper và người bạn đồng sáng lập tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce của anh ta.
[5] Roman Holiday là một bộ phim hài lãng mạn năm 1953, được đạo diễn và sản xuất bởi William Wyler, biên kịch John Dighton và Dalton Trumbo. Bộ phim này đã giới thiệu hình ảnh của huyền thoại điện ảnh gốc Bỉ Audrey Hepburn (đến với khán giả Mỹ, và bà đã giành được Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn công chúa Ann trong phim này. Hai vai nam chính trong phim do Gregory Peck và Eddie Albert thủ vai.
[6] Rhea Silvia (cũng được viết là Rea Silvia), cũng được gọi là Ilia, là người mẹ huyền thoại của hai anh em sinh đôi Romulus và Remus, những người sáng lập ra thành phố Roma.
Theo truyền thuyết về thành Roma, vị vua Numitor đã bị người em trai của mình đoạt ngôi và con gái của ông là Rhea Silvia bị buộc trở thành trinh nữ để không thể sinh con. Nhưng Rhea Silvia lại mang thai với con của thần Mars. Khi hai đứa bé bị phát hiện, công chúa bị giam vào tù và kết án tử hình, còn lũ trẻ thì bị bỏ trong giỏ trôi trên dòng sông Tiber. May mắn là 2 anh em đã cập bờ sống sót và được một con sói cái (là nữ thần sói Lupa) cho bú cho đến khi chúng được một người chăn cừu cưu mang. Khi biết được câu chuyện quá khứ của mình, 2 anh em đã giết kẻ chiếm ngôi Amulus, khôi phục lại ngôi vị cho Numitor và trở lại nơi được con sói nuôi dưỡng để xây dựng một thành phố. Hình ảnh 2 đứa trẻ trần truồng ngửa mặt bú sữa từ một con sói cái đã trở thành chủ đề xuyên suốt trong nghệ thuật La Mã, và các bức điêu khắc minh họa truyền thuyết này đều xuất hiện tại các bảo tàng trong khu vực.
[7] Nữ thần nước hay Naiads là một trong các thần nữ trong thần thoại Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ναϊάδες là từ ghép giữa từ νάειν có nghĩa “dòng chảy”, và νᾶμα có nghĩa là “nước”) đây là vị thần thường ngự trên đài phun nước, giếng, khe và suối. Họ khác với các thần sông thường sống ở vùng nước tĩnh lặng của hồ đầm lầy, ao và đầm phá. Bản thể của Naiad giống hình thù của một con nhộng nước, vì vậy nếu cơ thể bị khô héo thì họ sẽ phải chết. Naiad phản ánh khát vọng của người Hy Lạp cổ về sự cần thiết của yếu tố nước. Các Naiad có thể trở nên khá nguy hiểm đối với những người bộ hành và những người đi lạc, những cô Naiad sẽ xuất hiện và quyến rũ những khách bộ hành này.
Danh sách chương