Chỉ có một đôi mắt

Vào một ngày thứ bảy nhiều gió, chuông điện thoại reo. Lúc ấy khoảng gần tám giờ tối. Aomame đang mặc áo lông vũ, đùi đắp chăn len, ngồi trên ghế ngoài ban công, nhìn qua khe hở trên tấm mành, trông chừng chiếc cầu trượt dưới ánh sáng ngọn đèn thủy ngân. Hai tay nàng nhét trong chăn cho khỏi bị lạnh cứng. Chiếc cầu trượt không người trông như bộ xương của một động vật khổng lồ đã tuyệt chủng từ kỷ Băng hà.

Ngồi lâu bên ngoài trong đêm lạnh giá có lẽ không tốt cho thai nhi. Nhưng lạnh thế này chắc chưa phải là vấn đề lớn lắm, Aomame nghĩ. Dù bề mặt cơ thể có lạnh đến mấy, nước ối cũng luôn duy trì nhiệt độ tương đương với nhiệt độ máu. Trên thế giới này có rất nhiều nơi lạnh lẽo mà chỗ này không thể sánh nổi, nhưng phụ nữ ở đó vẫn cứ không ngừng sinh con đẻ cái đấy thôi. Còn hơn thế, đây là cái lạnh mình cần phải trải qua để gặp lại Tengo.

Trăng lớn màu vàng và trăng nhỏ màu xanh vẫn cùng sánh đôi trên bầu trời đêm đông như mọi khi. Những đám mây lớn nhỏ hình dạng khác nhau bị gió thổi lướt nhanh qua bầu trời. Mây trắng và dày đặc, đường nét rõ ràng, thoạt trông giống như những khối băng cứng đang trôi dọc theo dòng sông băng đang tan chảy ra biển lớn. Nhìn những đám mây đêm không biết từ đâu đến lại cũng không biết sẽ đi tới đâu, Aomame cảm thấy như thể mình bị đưa đến một nơi nào đó gần chốn tận cùng thế giới. Nơi đây là cực điểm của lý tính rồi, Aomame thầm nhủ. Từ chỗ này tiếp tục tiến lên thì chẳng có gì tồn tại nữa. Trải dài phía trước kia chỉ có hỗn độn hư vô.

Cửa kính đã được kéo lại, chỉ chừa một khe nhỏ xíu, vì vậy tiếng chuông điện thoại nghe rất xa xôi, mà Aomame thì đang chìm đắm trong suy tư. Nhưng tai nàng không bỏ lỡ tiếng chuông ấy. Điện thoại đổ chuông ba lần rồi dừng, hai mươi giây sau lại vang lên. Là điện thoại của Tamaru. Nàng gạt tấm chăn len đắp trên đùi sang một bên, kéo cánh cửa kính bám đầy hơi sương trắng mờ, đi vào nhà. Bên trong tối tăm u ám, lò sưởi bật vừa đúng độ. Nàng cầm ống nghe lên bằng bàn tay vẫn còn vương cảm giác lành lạnh.

“Vẫn đang đọc Proust à?”

“Chậm lắm,” Aomame trả lời. Như thể hai người đang nói chuyện bằng ám hiệu vậy.

“Không hợp khẩu vị sao?”

“Cũng không phải. Tôi nên nói sao nhỉ, câu chuyện đó viết về một thế giới hoàn toàn khác, không giống như ở đây.”

Tamaru im lặng chờ nàng nói tiếp. Anh ta không vội.

“Nói là một thế giới khác... thực ra ý tôi là tôi có cảm giác như đang đọc báo cáo chi tiết về một tinh cầu nhỏ cách thế giới mình đang sống tới mấy chục nghìn năm ánh sáng ấy. Tôi có thể hình dung và hiểu được từng cảnh tượng miêu tả trong đó, hết sức rõ ràng và tỉ mỉ. Song cảnh tượng trong sách đó và cảnh tượng ở đây không có cách nào kết nối với nhau được... khoảng cách vật lý xa quá. Thế nên cứ đọc được một đoạn lại phải quay lại, đọc từ đầu thêm một lần nữa.”

Aomame lục trong đầu xem sau đó phải nói gì. Tamaru vẫn chờ nàng.

“Nhưng không cảm thấy chán. Ông ấy viết rất công phu, rất đẹp. Tôi có thể lĩnh hội được cấu trúc của cái tinh cầu nhỏ cô độc ấy. Chỉ là tôi tiến triển rất chậm, kiểu như chèo một con thuyền nhỏ đi ngược dòng nước. Cầm mái chèo khua một lúc, sau đó dừng lại nghĩ ngợi, đến khi định thần lại thì con thuyền đã trở về vị trí ban đầu rồi,” Aomame nói. “Nhưng đối với tôi lúc này có lẽ cách đọc như vậy thành ra lại hợp, nếu so sánh với đọc một lèo để theo đuổi tình tiết câu chuyện. Nên nói thế nào nhỉ? Có cảm giác thời gian cứ đong đưa chẳng theo quy tắc nào cả. Dù là đoạn trước biến thành đoạn sau, đoạn sau biến thành đoạn trước cũng chẳng lấy gì làm quan trọng.”

Aomame tìm một cách biểu đạt chính xác hơn nữa.

“Tôi cảm thấy như đang nằm mơ giấc mơ của người khác. Tôi và người ấy đồng thời chia sẻ cảm giác như nhau, nhưng lại không nắm bắt được cái đồng thời ấy rốt cuộc là như thế nào. Cảm giác của chúng tôi rất gần nhau, nhưng thực tế lại có một khoảng cách xa xôi giữa chúng tôi.”

“Cảm giác này có phải là điều Proust theo đuổi hay không?”

Tất nhiên Aomame không biết.

“Dù sao chăng nữa, mặt khác, trong thế giới hiện thực này, thời gian thực sự đang nhích về phía trước,” Tamaru nói. “Không dừng lại, cũng không lùi về phía sau.”

“Tất nhiên, trong thế giới hiện thực, thời gian đang không ngừng tiến lên phía trước.”

Trong khi nói, Aomame hướng ánh mắt về phía cánh cửa kính. Quả đúng như vậy sao? Thời gian đang không ngừng tiến về phía trước sao? “Đang lúc giao mùa, năm 1984 cũng sắp kết thúc rồi,” Tamaru nói.

“Trong năm nay chắc tôi không đọc hết Đi tìm thời gian đã mất rồi.”

“Không sao cả,” Tamaru nói, “cô muốn đọc bao lâu cũng được. Nó là một bộ tiểu thuyết viết từ năm chục năm trước, không có nhiều thông tin nóng hổi cần phải tranh thủ từng giây từng phút đâu.”

Có lẽ thế, Aomame thầm nhủ. Nhưng có lẽ không phải vậy. Nàng đã không tin lắm vào cái thứ gọi là thời gian này nữa rồi.

Tamaru hỏi: “Cái thứ trong cơ thể cô vẫn ổn chứ?”

“Trước mắt thì không có vấn đề gì.”

“Vậy thì tốt,” Tamaru nói, “phải rồi, chuyện cái tên lùn Đầu Trọc lai lịch bất minh lượn lờ quanh nhà chúng tôi đó, cô nghe nói chưa?”

“Có nghe nói rồi. Thằng cha ấy vẫn quanh quẩn ở đó hả?”

“Không, gần đây không thấy bóng dáng hắn nữa. Hắn lởn vởn ở khu này khoảng hai ngày, sau đó thì biến mất luôn. Nhưng hắn đã đi khắp các công ty môi giới bất động sản gần đây nghe ngóng, lấy cớ tìm thuê nhà để thu thập thông tin về trung tâm bảo trợ. Tên này tướng mạo quá nổi bật, lại còn ăn mặc rất kinh, vì vậy những người nói chuyện với hắn đều nhớ được các bước đi của hắn.”

“Không thích hợp làm công tác điều tra và trinh sát.”

“Đúng thế. Bộ dạng ấy của hắn rất không thích hợp làm loại công việc đó. Cái đầu to tướng, trông như con búp bê đầu to vậy. Nhưng có vẻ hắn là một tên bản lĩnh rất khá, giỏi đi khắp nơi thu thập thông tin, hắn biết rõ nên thực hiện những bước nào, nên đi đâu nghe ngóng những chuyện gì. Đầu óc tên này dường như cũng khá linh hoạt. Hắn không để sót chi tiết nào quan trọng, cũng không uổng công làm những việc không cần thiết.”

“Hơn nữa, hắn đã thu thập được một lượng thông tin nhất định về trung tâm bảo trợ rồi.”

“Hắn điều tra được đó là nơi lập ra dành cho các phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình lánh nạn, do bà chủ cung cấp miễn phí. Sợ rằng hắn còn tra được bà chủ là hội viên của câu lạc bộ thể thao nơi cô làm việc, và cả chuyện cô thường xuyên đến đây hướng dẫn riêng cho bà ấy nữa. Giả dụ tôi là thằng cha đó, chắc chắn tôi sẽ tra ra được những chuyện này.”

“Thằng cha ấy cũng xuất sắc như anh à?”

“Chỉ cần không ngại bỏ công ra tìm hiểu các bí quyết thu thập thông tin, rèn luyện tư duy logic trong thời gian dài, ai cũng có thể làm được đến mức độ này.”

“Loại người như vậy chắc trên đời không nhiều lắm đâu.”

“Có một số. Thường được gọi là chuyên gia.”

Aomame ngồi xuống ghế, để một ngón tay lên chóp mũi. Ở đó vẫn còn lưu lại cái lạnh ngoài kia.

“Vậy là thằng cha đó không còn xuất hiện ở quanh biệt thự Cây Liễu nữa?” nàng hỏi.

“Hắn biết mình đã lộ mặt quá nhiều, cũng biết máy quay giám sát đang hoạt động. Vì vậy, hắn thu thập tất cả những thông tin có thể thu thập được trong thời gian rất ngắn, sau đó thì chuyển sang một bãi săn khác rồi.”

“Nói vậy thì tên đó giờ đã tìm ra mối liên hệ giữa tôi và bà chủ, còn phát hiện mối quan hệ ấy đã vượt quá quan hệ bình thường giữa huấn luyện viên của câu lạc bộ thể thao và một vị khách giàu có, đồng thời còn dính dáng cả đến trung tâm bảo trợ nữa. Hắn cũng phát giác ra một vài chuyện mà chúng ta từng thực hiện rồi.”

“Sợ rằng là vậy,” Tamaru nói. “Theo tôi thấy, hắn đã đến gần được cốt lõi vấn đề. Từng bước từng bước một.”

“Nhưng qua lời anh, tôi có ấn tượng hắn dường như không phải thành viên của một tổ chức lớn mạnh nào đó, mà giống như đang đơn độc hành động hơn.”

“Đúng, tôi cũng nghĩ vậy. Trừ phi có ý đồ đặc biệt gì đó, bằng không một tổ chức lớn mạnh không thể nào dùng một kẻ tướng mạo nổi bật như thế để thực hiện việc điều tra bí mật được.”

“Vậy thì tên đó thực hiện việc điều tra này vì nguyên nhân gì, cho ai?”

“Không biết,” Tamaru trả lời, “giờ chúng tôi chỉ biết hắn rất giỏi và rất nguy hiểm. Ngoài ra thì hiện tại chỉ có thể suy đoán mà thôi. Theo đánh giá dè dặt của tôi, Sakigake rất có khả năng dính líu đến chuyện này bằng một phương thức nào đó.”

Aomame ngẫm nghĩ một lát về đánh giá dè dặt của Tamaru. “Và tên kia đã đổi bãi săn rồi.”

“Đúng. Hắn đi đâu thì tôi không biết. Nhưng theo logic mà suy thì nơi hắn sẽ đi tiếp sau đó, hoặc nơi hắn nhắm đến, chính là chỗ cô đang ẩn nấp hiện giờ.”

“Anh đã nói với tôi, gần như không thể nào tìm được chỗ này.”

“Đúng thế. Dù thế nào cũng không thể tra ra được mối liên quan giữa bà chủ và căn hộ chung cư ấy. Mọi đầu mối đều đã bị xóa sạch triệt để rồi. Nhưng đấy chỉ là nhà an toàn ngắn hạn. Nếu cô ở đó quá lâu thì cũng khó tránh khỏi lộ ra sơ hở. Vào lúc cô không ngờ tới nhất. Chẳng hạn, biết đâu cô lại chạy ra ngoài, tình cờ bị người ta nhận ra. Đấy là một khả năng.”

“Tôi chưa hề bước chân ra khỏi cửa,” Aomame nói một cách dứt khoát. Tất nhiên nàng không nói thật. Nàng từng ra khỏi căn hộ này hai lần. Một lần chạy sang sân chơi nhỏ ở bên kia đường tìm kiếm Tengo. Còn một lần là để tìm kiếm lối ra, nàng đã bắt taxi đến chỗ dừng xe khẩn cấp gần khu Sangenjaya trên tuyến số 3 của đường cao tốc Thủ đô. Những chuyện này đương nhiên không thể nói với Tamaru.

“Giả dụ như thế, thằng cha kia làm sao mà tìm được nơi này?”

“Nếu tôi là hắn ta, tôi sẽ điều tra lại một lượt về thông tin cá nhân của cô. Cô là người như thế nào? Cô từ đâu đến? Trước đây từng làm gì, đã sống ra sao? Giờ cô đang nghĩ gì? Cô mong muốn gì? Không mong muốn gì? Thu thập mọi thông tin có thể tìm được, rồi sắp xếp tất cả lên bàn, tiến hành nghiệm chứng và phân tích triệt để.”

“Nói cách khác là bóc trần tôi ra?”

“Đúng thế. Bóc trần cô ra dưới ánh đèn sáng rõ và lạnh lẽo. Dùng nhíp và kính lúp kiểm tra từng ngóc ngách nhỏ, tìm ra khuôn mẫu tư duy và hành động của cô.”

“Tôi không hiểu lắm. Tiến hành phân tích khuôn mẫu của cá nhân như thế là có thể tìm ra chỗ tôi đang ẩn náu hay sao?”

“Chuyện này rất khó nói.” Tamaru đáp, “Có thể được, cũng có thể không. Còn tùy. Tôi chẳng qua chỉ nói, nếu như là tôi thì sẽ làm như vậy, vì tôi không nghĩ ra phương pháp nào khác. Bất kể là ai chăng nữa thì cũng đều có khuôn mẫu suy nghĩ và mô thức hành vi cố định, mà chỉ cần có khuôn mẫu cố định thì sẽ có được nhược điểm.”

“Sao nghe giống điều tra học thuật vậy?”

“Không có khuôn mẫu có định, con người không sống được. Cũng như chủ đề trong âm nhạc ấy. Nhưng nó đồng thời cũng hạn chế suy nghĩ và hành vi của cô, kìm hãm sự tự do, sắp xếp lại trật tự các ưu tiên về cô, có lúc còn bẻ cong cả logic của cô nữa. Ở tình huống trước mắt, cô nói cô không muốn rời khỏi chỗ ở hiện tại. Ít nhất là cho đến cuối năm nay, cô từ chối chuyển đến nơi khác an toàn hơn, vì cô đang tìm kiếm thứ gì đó ở chỗ ấy. Chừng nào chưa tìm thấy thứ muốn tìm, cô không thể đi khỏi đó được, hoặc là cô không muốn đi khỏi đó.”

Aomame không nói gì.

“Đó là thứ gì, cô muốn tìm nó đến mức nào, tôi không biết, mà cũng không có ý định cật vấn cô. Có điều theo tôi thấy, hiện tại, cái đó chính là nhược điểm cá nhân của cô.”

“Có lẽ thế,” Aomame trả lời.

“Tên búp bê đầu to ấy có thể sẽ nhắm vào đây để tấn công. Hắn sẽ không nhân nhượng lần theo cái nhân tố cá nhân kìm hãm ấy. Thằng cha đó hẳn cho rằng đây là một điểm đột phá. Giả dụ hắn ta thực sự xuất sắc như tôi tưởng tượng, tức là có thể dựa vào những manh mối vụn vặt mà lần hồi tìm được đến chỗ đó.”

“Tôi chắc chắn không tìm được đâu,” Aomame nói. “Chắc là hắn không thể phát hiện ra mối dây nối liền giữa tôi và thứ đó với nhau. Vì đó là thứ được tôi gìn giữ ở sâu trong lòng mình.”

“Cô có tự tin trăm phần trăm không?”

Aomame trầm ngâm. “Không được một trăm phần trăm, khoảng chín mươi tám phần trăm thôi.”

“Nếu vậy, cô cần phải nghiêm túc lo lắng vì hai phần trăm kia rồi. Vừa nãy tôi nói đó, thằng cha kia là một chuyên gia. Xuất sắc, và còn chịu khó chịu khổ nữa.”

Aomame không nói gì.

Tamaru nói tiếp: “Chuyên gia cũng giống như chó săn, có thể ngửi thấy những mùi mà người thường không thể ngửi được, nghe thấy những âm thanh người thường không nghe thấy. Nếu cô làm những việc người thường vẫn làm theo cách của người thường thì cô không thể trở thành chuyên gia, mà kể có trờ thành chăng nữa cũng chẳng sống sót được. Vì vậy, cô nên cảnh giác thì hơn. Cô là người cẩn trọng, về điểm này tôi biết, nhưng cô phải cẩn thận nhiều hơn nữa. Người ta không quyết định những chuyện quan trọng nhất dựa vào tỷ lệ phần trăm đâu.”

“Tôi có chuyện này muốn hỏi,” Aomame nói.

“Gì vậy?”

“Nếu tên búp bê đầu to kia lộ mặt ở chỗ anh, anh định thế nào?”

Tamaru thoáng trầm ngâm. Đây có lẽ là một câu hỏi bất ngờ đối với anh ta. “Có thể là không làm gì cả. Cứ để mặc hắn thôi. Ở khu này, thằng cha ấy gần như không thể làm được gì.”

“Nhưng giả sử thằng cha ấy bắt đầu làm chuyện gì đó khiến anh khó chịu thì sao?”

“Ví dụ như chuyện gì?”

“Tôi không biết. Chuyện gì đó khiến anh thấy phiền phức.”

Sâu trong cổ họng Tamaru phát ra một âm thanh ngắn ngủn. “Lúc đó, chắc là tôi sẽ gửi cho hắn một tín hiệu.”

“Là tín hiệu giữa các chuyên gia với nhau hả?”

“Chắc vậy,” Tamaru nói. “Có điều, trước khi hành động cụ thể, tôi cần phải tìm xem thằng cha này là đồng bọn với ai. Nếu hắn có chỗ dựa, có thể tôi mới là người gặp nguy hiểm chứ không phải hắn. Chỉ khi chắc chắn điều này thì mới có thể hành động được.”

“Trước khi nhảy xuống hồ bơi, phải xác nhận độ sâu của nước trước đã.”

“Có thể nói như thế.”

“Nhưng anh phỏng đoán hắn ta hoạt động một mình, có lẽ không có hậu thuẫn gì.”

“À, đúng là tôi phỏng đoán như thế. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, trực giác của tôi thỉnh thoảng không chính xác lắm. Hơn nữa, rất tiếc là sau gáy tôi không có mắt,” Tamaru nói. “Tóm lại, cô hãy đề cao cảnh giác, được không? Nhìn kỹ xung quanh, để ý xem có ai khả nghi không, cảnh vật có thay đổi gì không, có gì bất thường không. Hễ phát hiện ra có gì bất thường, dù nhỏ nhặt đến đâu, cô hãy lập tức báo với tôi.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ đề cao cảnh giác,” Aomame trả lời. Nàng không cần ai nhắc nhở. Để tìm thấy Tengo, mình lúc nào chẳng chú ý không bỏ sót bất cứ sự vật nhỏ nhặt nào. Nói thì nói vậy, nhưng mình chỉ có một đôi mắt mà thôi, đúng như Tamaru nói.

“Những gì tôi muốn nói chỉ có thế thôi.”

“Bà chủ khỏe không?” Aomame hỏi.

“Rất khỏe,” Tamaru trả lời, sau đó hỏi thêm, “nhưng bà ấy dường như ít nói hơn.”

“Bà ấy vốn xưa nay không phải người nhiều lời.”

Cổ họng Tamaru phát ra một âm thanh gầm gừ trầm đục. Trong cổ họng anh dường như có lắp một thứ khí quan dùng để biểu đạt những cảm xúc đặt biệt. “Ý tôi là, còn ít hơn.”

Aomame hình dung ra cảnh tượng bà chủ ngồi một mình trên chiếc ghế vải buồm trong nhà kính, dưới chân bà là chiếc bình tưới to, nhìn không dứt lũ bướm lặng lẽ bay lượn. Nàng biết rõ hơi thở của bà chủ tĩnh lặng đến nhường nào.

“Trong gói hàng lần tới, tôi để vào một hộp bánh madeleine nhé,” Tamaru noi, “biết đâu thứ ấy lại có ảnh hưởng tốt với dòng chảy thời gian.”

“Cám ơn anh,” Aomame nói.

Aomame đứng trong bếp pha ca cao. Trước khi ra ngoài ban công canh chừng, cần phải làm ấm thân thể lên một chút. Nàng đun sữa trong cái nồi có cán cầm dài, đổ bột ca cao vào cho tan rồi đổ vào cốc lớn, sau đó đổ kem tươi đã làm sẵn lên trên mặt. Nàng ngồi xuống trước bàn ăn, vừa nghĩ về cuộc nói chuyện với Tamaru vừa chầm chậm nhấp từng ngụm. Dưới ánh đèn sáng trưng lạnh lẽo, mình bị cái tên búp bê đầu to với bộ dạng kỳ quái kia lột trần. Hắn là một chuyên gia giỏi, và nguy hiểm nữa.

Aomame khoác áo lông vũ, choàng khăn, cầm cốc ca cao đã uống một nửa quay lại ban công. Nàng ngồi xuống chiếc ghế làm vườn, đắp chăn lên đùi. Trên cầu trượt vẫn không có người, nhưng đúng lúc này, một cái bóng trẻ con đang bước ra khỏi sân chơi đập vào mắt nàng. Giờ này không ngờ vẫn có trẻ con đến sân chơi chơi một mình, thật kỳ lạ. Một đứa trẻ béo lùn đầu đội mũ len. Nhưng Aomame chỉ có thể nhìn xuống qua khe hở của tấm mành mành, mà đứa trẻ đi rất nhanh nên thoắt cái đã qua khỏi tầm mắt của nàng, biến mất vào trong bóng tối của tòa nhà. Đầu nó dường như to qua mức đối với một đứa trẻ, nhưng có lẽ đấy chỉ là nàng tưởng tượng ra.

Nhất định đó không phải là Tengo. Vì vậy Aomame không để ý lắm, lại hướng mắt về phía cầu trượt, về phía những đám mây đang lục tục kéo nhau chạy ngang bầu trời. Nàng uống ca cao, ấp hai tay quanh cốc cho ấm.

Đương nhiên, người Aomame trông thấy không phải đứa trẻ nào mà chính là Ushikawa. Nếu trời sáng hơn chút nữa, hoặc thời gian quan sát dài thêm một chút, hẳn nàng sẽ phát giác ra cái đầu to tướng ấy chính là người đàn ông mà Tamaru nhắc đến. Nhưng thời gian Aomame nhìn thấy bóng dáng y chỉ có mấy giây, góc độ quan sát lại không được toàn diện. May thay, cũng vì lý do đó, Ushikawa cũng không trông thấy Aomame đang ngồi trên ban công.

Ở đây, có mấy cái “nếu như” hiện lên trong tâm trí chúng ta. Nếu như Tamaru rút ngắn câu chuyện lại một chút, nếu như sau đó Aomame không vừa trầm tư vừa pha ca cao nóng, nhất định nàng đã trông thấy Tengo đang ngồi trên đỉnh cầu trượt ngửa đầu nhìn trời, và nàng sẽ lập tức lao ra khỏi nhà, hai người sẽ có thể trùng phùng sau hai mươi năm xa cách.

Nhưng đồng thời, nếu như vậy, Ushikawa vốn đang theo dõi Tengo sẽ lập tức hiểu ra đây chính là Aomame, sau đó tra được nơi ở của nàng, rồi tức khắc thông báo cho hai gã ở Sakigake.

Vì lẽ đó, khó mà nói được Aomame không trông thấy Tengo lúc này là chuyện không may mắn hay may mắn. Dù thế nào thì, Tengo lại trèo lên đỉnh cầu trượt, ngẩng đầu nhìn hai mặt trăng lớn nhỏ đang lơ lửng trên trời và những đám mây bay ngang qua chúng giống như lần trước. Ushikawa thì ẩn mình trong chỗ tối cách đó không xa để giám sát Tengo. Trong khoảng thời gian đó, Aomame đã rời khỏi ban công, nói chuyện với Tamaru qua điện thoại, sau đó nàng pha ca cao để uống. Cứ vậy, hai mươi lăm phút trôi đi. Hai mươi lăm phút quyết định vận mệnh của họ. Lúc Aomame mặc áo lông, bưng cốc ca cao trở lại ban công, Tengo đã rời khỏi sân chơi bên kia đường. Ushikawa không bám theo ngay, vì y phải nán lại xác nhận chuyện gì đó. Làm xong chuyện ấy, y liền rảo bước ra khỏi sân chơi. Còn Aomame thì mục kích mấy giây cuối cùng này từ trên ban công căn hộ nàng đang ở.

Giống như hồi nãy, những cụm mây vẫn đang lướt nhanh qua bầu trời, bị gió thổi về phương Nam, ra phía vịnh Tokyo, rồi bị dồn ra Thái Bình Dương rộng lớn. Sau đó, vận mệnh của những đám mấy ấy thế nào không ai biết được, cũng như chẳng ai biết sau khi chết linh hồn sẽ đi đâu.

Tựu trung, vòng tròn đang thu hẹp lại. Nhưng cả Aomame lẫn Tengo đều không hay biết vòng tròn đang nhanh chóng thắt lại bên cạnh mình. Ushikawa ít nhiều cảm giác được sự thay đổi này, vì chính y là người đang tích cực hành động để thu hẹp cái vòng tròn ấy. Nhưng kể cả y cũng không thấy được toàn thể cục diện, và không nắm được điểm quan trọng nhất. Y không biết khoảng cách giữa mình và Aomame đã rút ngắn lại chỉ còn mấy chục mét. Và, đối với Ushikawa, đây là chuyện hiếm: lúc rời khỏi sân chơi, đầu óc y vô cùng hỗn loạn, không sao suy nghĩ có lớp có lang được.

Đến mười giờ, cái lạnh càng lúc càng vượt quá sức chịu đựng. Aomame đành bỏ cuộc, đứng dậy đi vào trong nhà có máy sưởi. Nàng cởi quần áo chui vào bồn tắm ấm áp. Trong lúc ngâm mình trong nước nóng để xua đi cái lạnh ngấm vào bên trong cơ thể, nàng áp bàn tay lên bụng dưới. Có thể thấy được chỗ đó đã hơi gồ lên. Nàng nhắm mắt lại, cố gắng cảm nhận thứ bé nhỏ ở bên trong. Nàng không còn nhiều thời gian nữa. Dù thế nào, Aomame cũng phải nói với Tengo. Nói với anh rằng nàng đang mang trong mình đứa con của anh. Nói với anh rằng nàng sẽ dốc sức lực ra bảo vệ đứa bé này.

Nàng thay quần áo leo lên giường, nghiêng mình nằm ngủ trong bóng tối. Trước khi chìm vào giấc ngủ sâu, nàng mơ thấy mình gặp bà chủ.

Aomame thấy mình đang ở trong nhà kính của Biệt thự Cây Liễu, cùng bà chủ ngắm bướm. Nhà kính hơi tối mà ấm áp, như bên trong tử cung vậy. Cây cao su Ấn Độ nàng bỏ lại nhà cũ cũng để ở đây. Nó được chăm sóc chu đáo, xanh tươi mơn mởn đến nỗi nàng gần như không thể nhận ra. Một con bướm miền Nam nàng chưa từng thấy bao giờ đậu trên một chiếc lá dày của nó. Con bướm thu đôi cánh màu sắc rực rỡ ấy, lặng lẽ ngủ say. Aomame cảm thấy rất vui.

Trong giấc mơ, bụng Aomame gồ cao hẳn lên, có vẻ như đã sắp đến ngày sinh. Nàng nghe thấy được tiếng tim đập của thứ bé nhỏ ấy. Nhịp tim của nàng và của nó hòa trộn vào nhau, tạo nên một tiết tấu phức hợp khiến người ta khoan khoái.

Bà chủ ngồi bên Aomame, ưỡn lưng thẳng tắp như xưa nay vẫn thế. Bà mím chặt môi, lặng lẽ hít thở. Hai người không nói gì, để không làm con bướm ngủ say kia giật mình tỉnh giấc. Nét mặt bà chủ hờ hững, như thể bà không nhận ra Aomame đang ở ngay bên. Tất nhiên, Aomame hiểu mình được bà chủ bảo vệ chặt chẽ đến nhường nào. Mặc dù thế, cảm giác bất an vẫn không chịu rút lui khỏi tâm trí nàng. Hai bàn tay bà chủ đặt trên đầu gối trông quá dỗi mỏng manh yếu đuối. Bàn tay Aomame lần tìm khẩu súng lục một cách vô thức, nhưng nàng không thấy nó đâu.

Nàng bị hút sâu vào giấc mơ đó, mặt khác cũng hiểu rằng đó là giấc mơ. Thỉnh thoảng, Aomame lại gặp một giấc mơ như thế. Nàng thấy mình ở trong một hiện thực rõ ràng, sáng sủa, nhưng đồng thời cũng hiểu đó không phải hiện thực. Đó chỉ là cảnh tưởng tượng miêu tả chi tiết xảy ra trên một hành tinh khác.

Lúc này, có người mở cửa nhà kính. Gió mang theo khí lạnh chẳng lành ùa vào. Con bướm lớn thức dậy, nhẹ nhàng xòe cánh bay khỏi cây cao su Ấn Độ. Ai vậy nhỉ? Nàng định ngoảnh đầu lại nhìn. Nhưng trước khi nàng kịp nhìn thấy bóng dáng người đó, giấc mơ đã kết thúc.

Lúc thức dậy, cả người Aomame đầm đìa mồ hôi. Thứ mồ hôi dính dấp, khó chịu. Nàng cởi bộ đồ ngủ ướt đẫm, lấy khăn bông lau khô mình, mặc áo phông sạch vào rồi ngồi một lúc trên giường. Có thể sắp xảy ra chuyện gì đó chẳng lành. Có thể có người đang nhằm vào thứ bé nhỏ này. Có thể người kia đã ở rất gần nàng. Cần phải tìm thấy Tengo càng sớm càng tốt. Thế nhưng, ngoài việc trông chừng sân chơi mỗi tối như hiện nay, nàng không còn cách nào khác. Chăm chú nhìn một cách cẩn thận, ngoan cường và bền bỉ. Chăm chú nhìn cái góc nhỏ nhoi này của thế giới, cái điểm duy nhất trên đỉnh cầu trượt kia. Chỉ có vậy mà thôi. Cho dù vậy, người ta vẫn có thể bỏ sót thứ gì đó. Vì nàng chỉ có một đôi mắt.

Aomame muốn khóc, nhưng nước mắt không xuất hiện. Nàng lại nằm xuống giường, tay đặt lên bụng, lặng lẽ chờ giấc ngủ quay trở lại.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện