Vậy ta không đi ngoài khiến huynh ấy chướng mắt nữa
Cố Thùy Phương bị hắn hỏi ngẩn ra, ngược lại mặt lộ vẻ không hiểu, hỏi hắn: “Bộ Hư cung và Thuần Quân kiếm có liên quan gì? Kiếm này là bảo vật khai sơn trấn phái của Thuần Quân phái ta, nào có liên quan với Bộ Hư cung?”
“Thái sư thúc không biết?” Trong lòng Văn Hành hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ chẳng lẽ Cửu đại nhân lại lừa hắn, bèn nói, “Vậy dám hỏi thái sư thúc, bí kíp võ học trong địa cung ban đầu dựa vào cách nào phá giải ra?”
Cố Thùy Phương không biết hắn hỏi cái này làm gì, nhưng nể tình Văn Hành tìm lại Thuần Quân kiếm, ông vẫn đáp đúng sự thật: “Công pháp bản môn lưu truyền xuống, đều do sư tổ, sư phụ và sư thúc chỉnh sửa vào năm đó, lại dạy cho các đồ đệ. Bởi vì chữ viết thật sự tối nghĩa, võ học địa cung lại rất nguy hiểm, lúc ta nhập môn được hai, ba năm địa cung đã bắt đầu bị niêm phong, cho nên cách giải mã đã thất truyền từ lâu theo cái chết của tiên sư, ta cũng không biết.”
Văn Hành bán tín bán nghi, gật đầu một cái, Cố Thùy Phương nói: “Sao ngươi hỏi chuyện này? Chẳng lẽ còn có ẩn tình gì ta không biết?”
Bây giờ trong lòng Văn Hành rối như đay, muốn cẩn thận cân nhắc cũng không có cách nào, nhưng hắn chết cũng phải chết rõ ràng, dứt khoát vò đã mẻ không sợ rơi, trực tiếp ném vấn đề của Cửu đại nhân cho Cố Thùy Phương: “Nếu Thuần Quân kiếm là bảo vật của bản môn, tại sao năm đó thái sư thúc không tự mình xuống núi lùng bắt phản đồ, mà đợi hơn ba mươi năm, mới giao phó cho một người ngoài không biết ngọn nguồn như con?”
Ánh mắt Cố Thùy Phương như điện, sáng rực bắn vào trong mắt Văn Hành. Văn Hành không tránh không né, thản nhiên nhìn thẳng vào ông, như thể điều hỏi ra chỉ là một vấn đề quá đỗi bình thường, nhưng mỗi một khối cơ bắp ẩn núp dưới áo bào căng cứng như dây cung, phòng bị một khi ông vùng lên, sẽ lập tức ra tay phản kích.
Trong hang đá yên lặng như mồ mả, ngay cả không khí cũng trở nên ngưng đọng rét lạnh. Một già một trẻ giằng co mấy hơi, nhưng cuối cùng Cố Thùy Phương không động thủ mà rời ánh mắt trước.
Ông ngồi xuống bậc thang bên cạnh, kiếm đặt ngang đầu gối, ánh mắt che đậy dưới mái tóc rối tầng tầng bỗng nhiên mất đi khí thế hùng hổ dọa người kia, cũng không giống giật mình mê man như ánh mắt đầu tiên nhìn thấy Thuần Quân kiếm, đó là một sự đau khổ cực kỳ tỉnh táo, như thể người sắp chết chờ được phán quyết cuối cùng. Ông hiểu có một số việc cuối cùng không tránh thoát, cũng biết sự che giấu của mình suy cho cùng là uổng công, nhưng vẫn vô thức lảng tránh chân tướng, dù thật ra ông đã xé lòng xé dạ, đựng tất cả đau khổ và hối hận trong mắt.
Trong nháy mắt lòng Văn Hành rõ ràng.
“Thái sư thúc… bị ai nhốt vào?”
Cố Thùy Phương lắc đầu, khô khốc khàn khàn nói: “Không phải… là ta tự muốn ở lại.”
Đó là chuyện xảy ra vào rất nhiều năm về trước, bởi vì bí ẩn xa xưa, ngay cả gia chủ hiện tại của Thuần Quân phái cũng không biết chuyện cũ này.
Viên Sư Đạo sư tổ khai sơn Thuần Quân phái có hai đệ tử, theo thứ tự là chưởng môn đời thứ hai của Thuần Quân phái và trưởng lão đỉnh Lâm Thu, hai vị này lại chia ra nhận đồ đệ, Trịnh Liêm và Cố Thùy Phương chính là hai đệ tử nổi trội nhất trong những người đồng lứa.
Từ nhỏ họ cùng nhau lớn lên, cùng luyện công học võ, đều là thiếu niên anh tài thiên tư tuyệt vời, lại chưa bao giờ sinh lòng đố kỵ với nhau, ngược lại vô cùng hòa thuận thân thiết, tốt đến mức có thể mặc chung một cái quần. Khi đó bất kể là sư phụ hay là những sư huynh đệ khác, đều ngầm thừa nhận hai người này về sau tất nhiên sẽ tiếp nhận vị trí chưởng môn nhân và trưởng lão đỉnh Lâm Thu, giúp đỡ lẫn nhau, cùng phát triển Thuần Quân phái.
Lúc chưởng môn đời thứ hai tại vị, bởi vì một đệ tử luyện công tẩu hỏa nhập ma nên niêm phong địa cung núi Việt Ảnh, Trịnh Liêm và Cố Thùy Phương với tư cách là đệ tử được các sư phụ yêu mến, đương nhiên biết rõ chân tướng trong đó, cũng thành thành thật thật nghe theo tổ sư dạy dỗ, chưa từng nhắc chuyện với người khác. Bí mật này vẫn luôn được giấu mãi đến một năm nào đó sau khi Trịnh Liêm lên làm chưởng môn nhân, năm đó Cố Thùy Phương du lịch dưới núi trở về, có một thiếu niên chưa kịp làm lễ đội mũ đi theo bên cạnh.
Cô Thùy Phương rất đắc ý nói với Trinh Liêm, đây là một hạt giống tốt ông tìm được ở bên ngoài, muốn nhận làm đồ đệ, là truyền nhân y bát[1] của ông.
[1] y bát: vốn chỉ áo cà sa và cái bát mà những nhà sư đạo Phật truyền lại cho môn đồ, sau này chỉ chung tư tưởng, học thuật, kỹ năng … truyền lại cho đời sau
Thiếu niên kia, chính là Nhiếp Trúc.
Mặc dù Trình Liêm cảm thấy đồ đệ này hơi lớn tuổi, còn mang nghệ tìm thầy, xem như dạy giỏi chưa chắc có thể nuôi thân, nhưng dù sao đó cũng là đệ tử đầu tiên của Cố Thùy Phương, cũng vui thay ông. Về phần truyền nhân y bát, đồ đệ của Cố Thùy Phương về sau đương nhiên sẽ tiếp nhận chức trưởng lão đỉnh Lâm Thu, cậu chàng này lại không thích hợp, vẫn phải tìm cho ông một đồ đệ nhỏ thông minh nhanh nhẹn lại hiếu thảo, để ông dạy từ nhỏ.
Nhưng không đợi Cố Thùy Phương nhận đồ đệ thứ hai, ông đã phát hiện thiên phú võ học của Nhiếp Trúc thật sự khiến người kinh ngạc, thậm chí vượt qua mình của năm đó. Mấy năm ngắn ngủi, hắn ta không những nhanh chóng luyện thành “Vong vật công” và “Thương Hải kiếm pháp”, mà còn phát hiện trong võ vông của Thuần Quân phái tồn tại một lỗ hổng lớn —— chính vì tổ sư gia chưa hoàn toàn phá giải mật văn, nội công tinh thâm hơn trong “Văn vật công” không được người biết, dẫn đến luyện Văn vật công đến trình độ nhất định sẽ gặp nút cổ chai, không không võ công tâm pháp thượng thừa hơn, cái chắn này mãi mãi không đột phá nổi.
Cố Thùy Phương có thiên phú đáng kiêu ngạo, từ nhỏ đã được sư phụ nuôi dạy như con ruột, lại có Trịnh Liêm bảo vệ, những sư huynh đệ khác cũng không dám tìm ông gây phiền phức, nói là lớn lên như sao vây quanh trăng cũng không đủ. Thời tuổi trẻ ông ra ngoài xông xáo, dựa vào công phu tuyệt diệu hoành hành giang hồ, chưa bao giờ chịu thiệt lớn, một trận chiến ở đảo Phục Kình đẩy danh tiếng của ông lên đỉnh cao. Bởi vậy con người ông kiêu ngạo tự kiêu, có thói xấu si mê võ, làm việc toàn dựa vào ý của bản thân, một khi muốn nghiên cứu võ công gì, đó là không ngủ không nghỉ, bất cứ giá nào cũng muốn làm thành, hoàn toàn mặc kệ người khác ngăn cản thế nào.
Nhiếp Trúc nắm trúng tính cách này của ông, lại lợi dụng lòng quý tài của Cố Thùy Phương, mới bỏ một liều thuốc mạnh, dụ dỗ đến mức Cố Thùy Phương lộ ra chuyện địa cung của núi Việt Ảnh với hắn ta.
Lúc chưởng môn đời trước niêm phong địa cung, tuổi Cố Thùy Phương còn nhỏ, mặc dù biết có đệ tử chết vì luyện tập nội công, trong lòng ông lại không cho là đúng, chỉ cảm thấy những người kia không đủ thông minh, cuối cùng mới tẩu hỏa nhập ma. Người thiên tư thông minh như ông, ngay cả Vong vật công cũng luyện rất hoàn hảo, nên tịnh tiến một tầng nữa, đến lúc lại mở địa cung ra, lại tìm nhiều bí tịch võ công hơn từ bên trong, để bù đắp lỗ hổng tồn tại trên cơ sở.
Tự phụ, ngạo mạn, dễ tin, tùy hứng… Những phẩm chất này tề tụ trên người ông vào thời điểm đó, cuối cùng khiến ông bị Nhiếp Trúc lừa mụ đầu, nói suông mấy lần, đã lộ hết vị trí cơ quan của địa cung không còn một mảnh. Thế là ngày mười lăm tháng tám, nhân lúc ông và Trịnh Liêm ra ngoài đến nơi hẹn, Nhiếp Trúc lầm tưởng núi Việt Ảnh đề phòng không nghiêm, dùng thuốc mê đánh gục tất cả đệ tử ở lại trên núi công coi, nổ thủng một địa đạo, chui vào trong địa cung, đánh cắp mấy bộ bí kíp và Thuần Quân kiếm.
Trịnh Liêm và Cố Thùy Phương nhận được truyền tin chạy về môn phái, vừa thấy tình hình này trên núi, mới phản ứng được Nhiếp Trúc mưu đồ đã lâu, mục tiêu cuối cùng nhất ẩn núp ở Thuần Quân phái đó là Thuần Quân kiếm và bí mật địa cung. Sự việc đã bại lộ, dưới sự chất vấn nghiêm khắc của Trịnh Liêm, Cố Thùy Phương sao thoát được? Đành phải nói rõ ràng mười mươi những lời ông đã nói với Nhiếp Trúc cho Trịnh Liêm.
Tất cả những chuyện ông làm, không khác đồng mưu đồng phạm với Nhiếp Trúc, chọc Trịnh Liêm nổi cơn thịnh nộ lớn nhất đời này, đầu tiên là vẻ mặt nghiêm nghị mắng Cố Thùy Phương một trận, lại rút chức trưởng lão của ông, bảo ông cút ra ngoài tìm Thuần Quân kiếm, không tìm được kiếm về, ông cũng không cần về nữa.
Cố Thùy Phương cũng nóng tính, đầu tiên bị đồ đệ phản bội, sau đó lại bị chưởng môn sư huynh mắng chửi không nể mặt, trong lòng ông biết mình tại ra sai lầm lớn, lại vẫn cảm thấy mở địa cung ra là tạo phúc cho môn phái, dù là vi phạm lời dạy của tổ sư, cũng nên lấy bí kíp ra luyện tập. Ngoài miệng ông không chịu thua, cãi nhau một trận với Trịnh Liêm, hai người đều đang nổi nóng, dưới cơn nóng giận đến đỉnh điểm rút kiếm đâm nhau, làm một trận kinh thiên động địa.
Trịnh Liêm chu toàn hơn ông, cũng chín chắn hơn ông, cho dù tức sôi máu lên, cuối cùng vẫn nương tay với Cố Thùy Phương, không dùng hết toàn lực. Cố Thùy Phương lại thẹn quá hóa giận, trở thành tên điên liều lĩnh, trong lúc đánh nhau kịch liệt vậy mà một kiếm chém đứt ngón út tay phải của Trịnh Liêm.
Máu tươi ào ạt cuối cùng khiến ông hoảng sợ tỉnh táo lại, cũng khiến Trịnh Liêm cực kỳ thất vọng về ông, hoàn toàn buồn lòng.
Ban đầu Thuần Quân phái lập phái, quyền lực nòng cốt thật ra chỉ có một vị chưởng môn nhân và một trưởng lão đỉnh Lâm Thu, do sư huynh đệ chia ra đảm nhiệm, hai người phải cùng gánh vác trách nhiệm, đồng tâm hiệp lực, có thể yên tâm giao mặt sau cho nhau, quan hệ mật thiết, còn hơn nhiều huynh đệ ruột thịt. Mà Cố Thùy Phương là trưởng lão đỉnh Lâm Thu, lại sinh lòng hướng ngoại, Thuần Quân phái không cần học trò không biết hối cải, chưởng môn càng không cần một trưởng lão sẽ vung kiếm về phía mình.
Trịnh Liêm không ép Cố Thùy Phương ra ngoài tìm kiếm nữa, trực tiếp nhốt ông vào địa cung, làm bạn với bí kíp võ công ông tâm tâm niệm niệm.
Cục diện năm đỉnh núi cùng tồn tại như bây giờ của Thuần Quân phái, chính là chuyện sau này, Trịnh Liêm đã sửa đổi lề lối. Ông xây dựng Tàng Kiếm các trên đỉnh Lâm Thu, từ đây biến một đỉnh núi thành cấm địa, đồng thời nhận đệ tử môn đồ rộng rãi, từ đó lựa chọn ra năm đệ tử ưu tú nhất chịu một phần chức năng của trưởng lão đỉnh Lâm Thu.
Mà Cố Thùy Phương là trưởng lão đỉnh Lâm Thu đời cuối cùng, giống như sao băng xẹt qua chân trời, chỉ lấp lánh một cái trên bầu trời đêm, đã vội vàng chìm vào lòng đất tối tăm.
Lúc Văn Hành mới gặp Cố Thùy Phương, cảm giác ông làm việc có phần quái lạ không bình thường, còn tưởng là ông ở lâu trong lòng đất, trong lòng vẫn có phòng bị với người lạ, bây giờ xem ra, ngược lại có thể không phải là bộc lộ tính tình, chỉ là sống giam cầm hơn ba mươi năm, có bao nhiêu sắc sảo cũng bị san bằng hết, ngọn lửa từ lâu đã cháy thành một nắm tro tàn.
“Khi ta mới bị giam vào, mặc dù sư huynh đang nổi nóng, nhưng vẫn chưa quên ta, mỗi ngày bảo người tới đưa cơm, ta biết mình thực sự nợ huynh ấy rất nhiều, vẫn muốn nói lời xin lỗi với huynh ấy.” Cố Thùy Phương dường như nhìn thấu suy nghĩ của hắn, lại giống như đang tự nói một mình, “Nhưng huynh ấy không muốn gặp ta…”
Ông hối hận rồi, bị giam càng lâu, càng biết mình phạm sai lầm nghiêm trọng cỡ nào. Ông tốn rất nhiều lời, nói rõ khoa tay múa chân với người câm tới đưa cơm, thậm chí để nhận lỗi ông tự dùng miệng cắn đứt ngón út tay phải của mình đặt trong giỏ đưa cơm, bảo người kia mang về cho Trịnh Liêm xem.
Điên rồ như thế, chỉ để gặp Trịnh Liêm một lần, chính miệng nói với ông ấy một câu “Xin lỗi.”
Nhưng Trịnh Liêm đã bị Cố Thùy Phương tổn thương lòng, nói không gặp là thật sự chưa bao giờ đến trước mặt ông nữa.
Cố Thùy Phương từ điên đến tuyệt vọng, cuối cùng tâm như nước lặng, ông không còn nhớ bên ngoài, cũng không còn liều mạng thúc ép cầu xin Trịnh Liêm, ngoại trừ nhàm chán rảnh rỗi nghiền ngẫm một vài võ công trên vách đá, thì ngồi trên bệ đá ở chính giữa hối lỗi. Năm năm sau, chưởng môn lệnh cho người câm đến thả ông ra ngoài, Cố Thùy Phương hỏi người kia: “Sư huynh chịu gặp ta rồi à?”
Người câm lắc đầu.
Cố Thùy Phương ừ một tiếng, xua tay nói: “Vậy ta không đi ra ngoài khiến huynh ấy chướng mắt nữa.” Dứt lời ông quay người về địa cung.
Lại năm năm trôi qua, vẫn là đối thoại giống như đúc; năm năm nữa trôi qua, cũng trả lời như vậy.
Mãi đến tận năm năm lần thứ tư, không có ai đến.
Cố Thùy Phương đã biết trước, khi một ngày nào đó ông không còn nhìn thấy người câm đúng hạn đến đưa cơm, khi địa cung cuối cùng trở thành chỗ chết không ai đặt chân, một mối liên hệ cuối cùng trong đoạn duyên phận sư huynh đệ này cũng triệt để đứt.
Trịnh Liêm chết rồi.
Cố Thùy Phương bị hắn hỏi ngẩn ra, ngược lại mặt lộ vẻ không hiểu, hỏi hắn: “Bộ Hư cung và Thuần Quân kiếm có liên quan gì? Kiếm này là bảo vật khai sơn trấn phái của Thuần Quân phái ta, nào có liên quan với Bộ Hư cung?”
“Thái sư thúc không biết?” Trong lòng Văn Hành hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ chẳng lẽ Cửu đại nhân lại lừa hắn, bèn nói, “Vậy dám hỏi thái sư thúc, bí kíp võ học trong địa cung ban đầu dựa vào cách nào phá giải ra?”
Cố Thùy Phương không biết hắn hỏi cái này làm gì, nhưng nể tình Văn Hành tìm lại Thuần Quân kiếm, ông vẫn đáp đúng sự thật: “Công pháp bản môn lưu truyền xuống, đều do sư tổ, sư phụ và sư thúc chỉnh sửa vào năm đó, lại dạy cho các đồ đệ. Bởi vì chữ viết thật sự tối nghĩa, võ học địa cung lại rất nguy hiểm, lúc ta nhập môn được hai, ba năm địa cung đã bắt đầu bị niêm phong, cho nên cách giải mã đã thất truyền từ lâu theo cái chết của tiên sư, ta cũng không biết.”
Văn Hành bán tín bán nghi, gật đầu một cái, Cố Thùy Phương nói: “Sao ngươi hỏi chuyện này? Chẳng lẽ còn có ẩn tình gì ta không biết?”
Bây giờ trong lòng Văn Hành rối như đay, muốn cẩn thận cân nhắc cũng không có cách nào, nhưng hắn chết cũng phải chết rõ ràng, dứt khoát vò đã mẻ không sợ rơi, trực tiếp ném vấn đề của Cửu đại nhân cho Cố Thùy Phương: “Nếu Thuần Quân kiếm là bảo vật của bản môn, tại sao năm đó thái sư thúc không tự mình xuống núi lùng bắt phản đồ, mà đợi hơn ba mươi năm, mới giao phó cho một người ngoài không biết ngọn nguồn như con?”
Ánh mắt Cố Thùy Phương như điện, sáng rực bắn vào trong mắt Văn Hành. Văn Hành không tránh không né, thản nhiên nhìn thẳng vào ông, như thể điều hỏi ra chỉ là một vấn đề quá đỗi bình thường, nhưng mỗi một khối cơ bắp ẩn núp dưới áo bào căng cứng như dây cung, phòng bị một khi ông vùng lên, sẽ lập tức ra tay phản kích.
Trong hang đá yên lặng như mồ mả, ngay cả không khí cũng trở nên ngưng đọng rét lạnh. Một già một trẻ giằng co mấy hơi, nhưng cuối cùng Cố Thùy Phương không động thủ mà rời ánh mắt trước.
Ông ngồi xuống bậc thang bên cạnh, kiếm đặt ngang đầu gối, ánh mắt che đậy dưới mái tóc rối tầng tầng bỗng nhiên mất đi khí thế hùng hổ dọa người kia, cũng không giống giật mình mê man như ánh mắt đầu tiên nhìn thấy Thuần Quân kiếm, đó là một sự đau khổ cực kỳ tỉnh táo, như thể người sắp chết chờ được phán quyết cuối cùng. Ông hiểu có một số việc cuối cùng không tránh thoát, cũng biết sự che giấu của mình suy cho cùng là uổng công, nhưng vẫn vô thức lảng tránh chân tướng, dù thật ra ông đã xé lòng xé dạ, đựng tất cả đau khổ và hối hận trong mắt.
Trong nháy mắt lòng Văn Hành rõ ràng.
“Thái sư thúc… bị ai nhốt vào?”
Cố Thùy Phương lắc đầu, khô khốc khàn khàn nói: “Không phải… là ta tự muốn ở lại.”
Đó là chuyện xảy ra vào rất nhiều năm về trước, bởi vì bí ẩn xa xưa, ngay cả gia chủ hiện tại của Thuần Quân phái cũng không biết chuyện cũ này.
Viên Sư Đạo sư tổ khai sơn Thuần Quân phái có hai đệ tử, theo thứ tự là chưởng môn đời thứ hai của Thuần Quân phái và trưởng lão đỉnh Lâm Thu, hai vị này lại chia ra nhận đồ đệ, Trịnh Liêm và Cố Thùy Phương chính là hai đệ tử nổi trội nhất trong những người đồng lứa.
Từ nhỏ họ cùng nhau lớn lên, cùng luyện công học võ, đều là thiếu niên anh tài thiên tư tuyệt vời, lại chưa bao giờ sinh lòng đố kỵ với nhau, ngược lại vô cùng hòa thuận thân thiết, tốt đến mức có thể mặc chung một cái quần. Khi đó bất kể là sư phụ hay là những sư huynh đệ khác, đều ngầm thừa nhận hai người này về sau tất nhiên sẽ tiếp nhận vị trí chưởng môn nhân và trưởng lão đỉnh Lâm Thu, giúp đỡ lẫn nhau, cùng phát triển Thuần Quân phái.
Lúc chưởng môn đời thứ hai tại vị, bởi vì một đệ tử luyện công tẩu hỏa nhập ma nên niêm phong địa cung núi Việt Ảnh, Trịnh Liêm và Cố Thùy Phương với tư cách là đệ tử được các sư phụ yêu mến, đương nhiên biết rõ chân tướng trong đó, cũng thành thành thật thật nghe theo tổ sư dạy dỗ, chưa từng nhắc chuyện với người khác. Bí mật này vẫn luôn được giấu mãi đến một năm nào đó sau khi Trịnh Liêm lên làm chưởng môn nhân, năm đó Cố Thùy Phương du lịch dưới núi trở về, có một thiếu niên chưa kịp làm lễ đội mũ đi theo bên cạnh.
Cô Thùy Phương rất đắc ý nói với Trinh Liêm, đây là một hạt giống tốt ông tìm được ở bên ngoài, muốn nhận làm đồ đệ, là truyền nhân y bát[1] của ông.
[1] y bát: vốn chỉ áo cà sa và cái bát mà những nhà sư đạo Phật truyền lại cho môn đồ, sau này chỉ chung tư tưởng, học thuật, kỹ năng … truyền lại cho đời sau
Thiếu niên kia, chính là Nhiếp Trúc.
Mặc dù Trình Liêm cảm thấy đồ đệ này hơi lớn tuổi, còn mang nghệ tìm thầy, xem như dạy giỏi chưa chắc có thể nuôi thân, nhưng dù sao đó cũng là đệ tử đầu tiên của Cố Thùy Phương, cũng vui thay ông. Về phần truyền nhân y bát, đồ đệ của Cố Thùy Phương về sau đương nhiên sẽ tiếp nhận chức trưởng lão đỉnh Lâm Thu, cậu chàng này lại không thích hợp, vẫn phải tìm cho ông một đồ đệ nhỏ thông minh nhanh nhẹn lại hiếu thảo, để ông dạy từ nhỏ.
Nhưng không đợi Cố Thùy Phương nhận đồ đệ thứ hai, ông đã phát hiện thiên phú võ học của Nhiếp Trúc thật sự khiến người kinh ngạc, thậm chí vượt qua mình của năm đó. Mấy năm ngắn ngủi, hắn ta không những nhanh chóng luyện thành “Vong vật công” và “Thương Hải kiếm pháp”, mà còn phát hiện trong võ vông của Thuần Quân phái tồn tại một lỗ hổng lớn —— chính vì tổ sư gia chưa hoàn toàn phá giải mật văn, nội công tinh thâm hơn trong “Văn vật công” không được người biết, dẫn đến luyện Văn vật công đến trình độ nhất định sẽ gặp nút cổ chai, không không võ công tâm pháp thượng thừa hơn, cái chắn này mãi mãi không đột phá nổi.
Cố Thùy Phương có thiên phú đáng kiêu ngạo, từ nhỏ đã được sư phụ nuôi dạy như con ruột, lại có Trịnh Liêm bảo vệ, những sư huynh đệ khác cũng không dám tìm ông gây phiền phức, nói là lớn lên như sao vây quanh trăng cũng không đủ. Thời tuổi trẻ ông ra ngoài xông xáo, dựa vào công phu tuyệt diệu hoành hành giang hồ, chưa bao giờ chịu thiệt lớn, một trận chiến ở đảo Phục Kình đẩy danh tiếng của ông lên đỉnh cao. Bởi vậy con người ông kiêu ngạo tự kiêu, có thói xấu si mê võ, làm việc toàn dựa vào ý của bản thân, một khi muốn nghiên cứu võ công gì, đó là không ngủ không nghỉ, bất cứ giá nào cũng muốn làm thành, hoàn toàn mặc kệ người khác ngăn cản thế nào.
Nhiếp Trúc nắm trúng tính cách này của ông, lại lợi dụng lòng quý tài của Cố Thùy Phương, mới bỏ một liều thuốc mạnh, dụ dỗ đến mức Cố Thùy Phương lộ ra chuyện địa cung của núi Việt Ảnh với hắn ta.
Lúc chưởng môn đời trước niêm phong địa cung, tuổi Cố Thùy Phương còn nhỏ, mặc dù biết có đệ tử chết vì luyện tập nội công, trong lòng ông lại không cho là đúng, chỉ cảm thấy những người kia không đủ thông minh, cuối cùng mới tẩu hỏa nhập ma. Người thiên tư thông minh như ông, ngay cả Vong vật công cũng luyện rất hoàn hảo, nên tịnh tiến một tầng nữa, đến lúc lại mở địa cung ra, lại tìm nhiều bí tịch võ công hơn từ bên trong, để bù đắp lỗ hổng tồn tại trên cơ sở.
Tự phụ, ngạo mạn, dễ tin, tùy hứng… Những phẩm chất này tề tụ trên người ông vào thời điểm đó, cuối cùng khiến ông bị Nhiếp Trúc lừa mụ đầu, nói suông mấy lần, đã lộ hết vị trí cơ quan của địa cung không còn một mảnh. Thế là ngày mười lăm tháng tám, nhân lúc ông và Trịnh Liêm ra ngoài đến nơi hẹn, Nhiếp Trúc lầm tưởng núi Việt Ảnh đề phòng không nghiêm, dùng thuốc mê đánh gục tất cả đệ tử ở lại trên núi công coi, nổ thủng một địa đạo, chui vào trong địa cung, đánh cắp mấy bộ bí kíp và Thuần Quân kiếm.
Trịnh Liêm và Cố Thùy Phương nhận được truyền tin chạy về môn phái, vừa thấy tình hình này trên núi, mới phản ứng được Nhiếp Trúc mưu đồ đã lâu, mục tiêu cuối cùng nhất ẩn núp ở Thuần Quân phái đó là Thuần Quân kiếm và bí mật địa cung. Sự việc đã bại lộ, dưới sự chất vấn nghiêm khắc của Trịnh Liêm, Cố Thùy Phương sao thoát được? Đành phải nói rõ ràng mười mươi những lời ông đã nói với Nhiếp Trúc cho Trịnh Liêm.
Tất cả những chuyện ông làm, không khác đồng mưu đồng phạm với Nhiếp Trúc, chọc Trịnh Liêm nổi cơn thịnh nộ lớn nhất đời này, đầu tiên là vẻ mặt nghiêm nghị mắng Cố Thùy Phương một trận, lại rút chức trưởng lão của ông, bảo ông cút ra ngoài tìm Thuần Quân kiếm, không tìm được kiếm về, ông cũng không cần về nữa.
Cố Thùy Phương cũng nóng tính, đầu tiên bị đồ đệ phản bội, sau đó lại bị chưởng môn sư huynh mắng chửi không nể mặt, trong lòng ông biết mình tại ra sai lầm lớn, lại vẫn cảm thấy mở địa cung ra là tạo phúc cho môn phái, dù là vi phạm lời dạy của tổ sư, cũng nên lấy bí kíp ra luyện tập. Ngoài miệng ông không chịu thua, cãi nhau một trận với Trịnh Liêm, hai người đều đang nổi nóng, dưới cơn nóng giận đến đỉnh điểm rút kiếm đâm nhau, làm một trận kinh thiên động địa.
Trịnh Liêm chu toàn hơn ông, cũng chín chắn hơn ông, cho dù tức sôi máu lên, cuối cùng vẫn nương tay với Cố Thùy Phương, không dùng hết toàn lực. Cố Thùy Phương lại thẹn quá hóa giận, trở thành tên điên liều lĩnh, trong lúc đánh nhau kịch liệt vậy mà một kiếm chém đứt ngón út tay phải của Trịnh Liêm.
Máu tươi ào ạt cuối cùng khiến ông hoảng sợ tỉnh táo lại, cũng khiến Trịnh Liêm cực kỳ thất vọng về ông, hoàn toàn buồn lòng.
Ban đầu Thuần Quân phái lập phái, quyền lực nòng cốt thật ra chỉ có một vị chưởng môn nhân và một trưởng lão đỉnh Lâm Thu, do sư huynh đệ chia ra đảm nhiệm, hai người phải cùng gánh vác trách nhiệm, đồng tâm hiệp lực, có thể yên tâm giao mặt sau cho nhau, quan hệ mật thiết, còn hơn nhiều huynh đệ ruột thịt. Mà Cố Thùy Phương là trưởng lão đỉnh Lâm Thu, lại sinh lòng hướng ngoại, Thuần Quân phái không cần học trò không biết hối cải, chưởng môn càng không cần một trưởng lão sẽ vung kiếm về phía mình.
Trịnh Liêm không ép Cố Thùy Phương ra ngoài tìm kiếm nữa, trực tiếp nhốt ông vào địa cung, làm bạn với bí kíp võ công ông tâm tâm niệm niệm.
Cục diện năm đỉnh núi cùng tồn tại như bây giờ của Thuần Quân phái, chính là chuyện sau này, Trịnh Liêm đã sửa đổi lề lối. Ông xây dựng Tàng Kiếm các trên đỉnh Lâm Thu, từ đây biến một đỉnh núi thành cấm địa, đồng thời nhận đệ tử môn đồ rộng rãi, từ đó lựa chọn ra năm đệ tử ưu tú nhất chịu một phần chức năng của trưởng lão đỉnh Lâm Thu.
Mà Cố Thùy Phương là trưởng lão đỉnh Lâm Thu đời cuối cùng, giống như sao băng xẹt qua chân trời, chỉ lấp lánh một cái trên bầu trời đêm, đã vội vàng chìm vào lòng đất tối tăm.
Lúc Văn Hành mới gặp Cố Thùy Phương, cảm giác ông làm việc có phần quái lạ không bình thường, còn tưởng là ông ở lâu trong lòng đất, trong lòng vẫn có phòng bị với người lạ, bây giờ xem ra, ngược lại có thể không phải là bộc lộ tính tình, chỉ là sống giam cầm hơn ba mươi năm, có bao nhiêu sắc sảo cũng bị san bằng hết, ngọn lửa từ lâu đã cháy thành một nắm tro tàn.
“Khi ta mới bị giam vào, mặc dù sư huynh đang nổi nóng, nhưng vẫn chưa quên ta, mỗi ngày bảo người tới đưa cơm, ta biết mình thực sự nợ huynh ấy rất nhiều, vẫn muốn nói lời xin lỗi với huynh ấy.” Cố Thùy Phương dường như nhìn thấu suy nghĩ của hắn, lại giống như đang tự nói một mình, “Nhưng huynh ấy không muốn gặp ta…”
Ông hối hận rồi, bị giam càng lâu, càng biết mình phạm sai lầm nghiêm trọng cỡ nào. Ông tốn rất nhiều lời, nói rõ khoa tay múa chân với người câm tới đưa cơm, thậm chí để nhận lỗi ông tự dùng miệng cắn đứt ngón út tay phải của mình đặt trong giỏ đưa cơm, bảo người kia mang về cho Trịnh Liêm xem.
Điên rồ như thế, chỉ để gặp Trịnh Liêm một lần, chính miệng nói với ông ấy một câu “Xin lỗi.”
Nhưng Trịnh Liêm đã bị Cố Thùy Phương tổn thương lòng, nói không gặp là thật sự chưa bao giờ đến trước mặt ông nữa.
Cố Thùy Phương từ điên đến tuyệt vọng, cuối cùng tâm như nước lặng, ông không còn nhớ bên ngoài, cũng không còn liều mạng thúc ép cầu xin Trịnh Liêm, ngoại trừ nhàm chán rảnh rỗi nghiền ngẫm một vài võ công trên vách đá, thì ngồi trên bệ đá ở chính giữa hối lỗi. Năm năm sau, chưởng môn lệnh cho người câm đến thả ông ra ngoài, Cố Thùy Phương hỏi người kia: “Sư huynh chịu gặp ta rồi à?”
Người câm lắc đầu.
Cố Thùy Phương ừ một tiếng, xua tay nói: “Vậy ta không đi ra ngoài khiến huynh ấy chướng mắt nữa.” Dứt lời ông quay người về địa cung.
Lại năm năm trôi qua, vẫn là đối thoại giống như đúc; năm năm nữa trôi qua, cũng trả lời như vậy.
Mãi đến tận năm năm lần thứ tư, không có ai đến.
Cố Thùy Phương đã biết trước, khi một ngày nào đó ông không còn nhìn thấy người câm đúng hạn đến đưa cơm, khi địa cung cuối cùng trở thành chỗ chết không ai đặt chân, một mối liên hệ cuối cùng trong đoạn duyên phận sư huynh đệ này cũng triệt để đứt.
Trịnh Liêm chết rồi.
Danh sách chương