Ngoài cửa sổ, cơn mưa rào đang trút xuống. Chỉ qua một đêm, dưới cây ngân hạnh và cây chi dương trong cung đã rơi một lớp lá thật dày. Một cơn mưa thu kéo theo cơn lạnh tràn về, chưa đến vài ngày cung điện đã rét buốt, tất cả giun đất phơi khô đều được đốt lên.

Chuyến đi ra ngoại thành lần này của Dung Dận đã rất nhanh đã có hiệu quả. Chu Thị vừa mở đường thủy, lương thực thuốc men ngay lập tức xuôi theo sông Ly Giang vận chuyển đến vùng gặp nạn, nhanh chóng bình ổn tình hình. Tin tức triều đình muốn mướn nhân công nạo vét lòng sông vừa lan ra, dân chúng gặp nạn đang sống thang lang chưa kịp đợi phủ nha kêu gọi đã tự mình tụ tập lại nạp danh sách lên. Từ mấy năm trước Dung Dận đã ra chỉ dụ xuống các bang, quy định về việc an trí nạn dân trong lũ lụt, xử lý xác chết, cộng thêm bây giờ có Lục Đức Hải đang ở đó khống chế tình hình, nạn lũ lụt lần này hiện đã có thể thuận lợi vượt qua giai đoạn gian nan nhất, không bùng nổ ôn dịch trên quy mô lớn.

Lại qua thêm mấy ngày, tấu sớ của Lục Đức Hải được trình lên trên bàn của Hoàng đế. Hắn lần này quả thật đã làm không tệ, Hoàn châu Tương bang cấp báo hai đầu, hắn bên này mở kho lương khẩn cấp, bên kia lại nâng cao giá thị trường lương thực mua vào. Trong thành, phú thương rất biết nắm bắt cơ hội, bán đổ bán tháo lương thực đang tích trữ để kiếm lời, sau đó lại tìm đủ mọi cách để tiếp cận kho lương ở Hoàn châu. Hắn chờ đến phút mấu chốt, lúc lương thực trong thành phố đã đủ để chi dùng, nhanh chóng ban sắc lệnh hạ giá lương thực xuống, buộc thương gia phải bán ra lỗ vốn, lợi nhuận lúc trước nuốt vào giờ lại phải nhả ra. Hai đầu giằng co như thế, trong lúc triều đình chưa kịp vận chuyển lương thực tới thì người dân đã có thể tự cứu lấy mình, thật vất vả mới giúp được trăm vạn cơ dân ăn no.

Trong tấu sớ chỉ nói sơ qua tình hình, nhưng vẫn rất chu đáo báo cáo thêm tình huống cứu giúp nạn dân ở ven bờ sông Ly Giang. Dung Dận đọc lướt qua đã hiểu, Lục Đức Hải nói trên đây thì có vẻ nhẹ nhàng, nhưng sau lưng không biết đã phải chịu đựng biết bao áp lực và uy hiếp. Nâng lên hạ xuống giá cả lương thực như vậy, nếu trong tay hắn không có Binh Phù thì cả quan lớn lẫn phú thương thiếu điều chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống hắn. Đe dọa dụ dỗ, ngăn cản trì hoãn khẳng định không thiếu, quay đầu lại không tham công, đúng là một hạt giống tốt đáng để bồi dưỡng.

Mọi việc trước mắt hiện đã được sắp xếp ổn thỏa, chỉ chờ nước lui, Dung Dận sẽ sắp xếp cho Lục Đức Hải một vị trí thích hợp. Lấy lý lịch của hắn thì làm một Bố chính sử tam phẩm là thích hợp nhất, nhưng Dung Dận sợ hắn trở lại bang sẽ bị trả thù cho nên chỉ ban cho hắn chức Đô đốc tứ phẩm. Chức quan này mặc dù không lớn nhưng lại là vị trí then chốt, bên trên là quan thượng thư, bên dưới quản lý chính trị quân sự, chính sự phức tạp, lúc nào cũng làm việc kề cận với các bộ, đây là một vị trí rèn người rất tốt, lại ở ngay dưới mắt quan sát của đế vương, có động tĩnh gì cũng có thể chú ý ngay.

Bố trí cho Lục Đức Hải xong, y lại lật tấu chương ra xem. Hoằng đã theo hầu ở ngự thư phòng được mấy tháng, tiếp thu bao nhiêu giáo dục và rèn luyện. Dung Dận vì muốn để hắn sớm thông hiểu chính sự cho nên đã an bài hắn đi theo quan tham chính hầu mực làm phiếu nhận xét. Phân loại tấu chương được trình lên, căn cứ vào nội dung mà đưa ra đề xuất. Có những tấm phiếu nhận xét tấu chương vừa nhìn đã biết là do Hoằng nghĩ ra, suy nghĩ chưa hẳn là thấu đáo, lời văn cũng không trau chuốt, Dung Dận lập tức lấy bút viết vài câu gợi ý rồi trả về cho hắn viết lại lần nữa.

Chờ đến khi bên ngoài vang lên tiếng kẻng, Dung Dận lập tức ngừng chính vụ, cùng Hoằng đi luyện kiếm.

Người hầu kiếm hiện đã đổi về vị đại giáo tập lúc trước, Dung Dận so chiêu với hắn hơn một giờ, khắp người ra đầy mồ hôi nóng hổi. Y vừa học được quyền pháp mới, sử dụng còn chưa thuần thục, lúc đối chiêu lộ ra trăm chỗ sơ hở, bị đại giáo tập chỉ điểm rất nhiều chỗ trên người. Đại giáo tập vẫn như cũ hạ thủ không hề lưu tình, chẳng giống như Hoằng vừa dịu dàng vừa điềm tĩnh. Hết giờ học, Dung Dận ngồi trong Noãn Ninh điện than phiền với Hoằng việc luyện tập quá mức nặng nề. Hoằng nhẹ giọng giải thích với y rằng: “Đại giáo tập từ thời điểm ban đầu đã đi theo con đường võ thuật, lúc tập trung tinh thần khó tránh khỏi vận lực có hơi mạnh. Nhưng hắn là người giỏi nhất ở đây, tuyệt đối sẽ không có sai sót.”

Dung Dận nói: “Ta thích ngươi dạy ta.”

Hoằng cúi đầu đáp: “Hiện tại thì không thể được.”

Dung Dận hỏi: “Tại sao?”

Hoằng nói: “Trong lòng nghĩ bậy, khí tức không thuần.”

Dung Dận giật mình, tim đập thình thịch, rất muốn hỏi nghĩ bậy là nghĩ về chuyện gì, nhưng dù thế nào lời cũng không thể ra khỏi cửa miệng, chỉ đành phải đá sang chuyện khác, nói: “Đại giáo tập không phải là cha nuôi của ngươi à? Thế nhưng tại sao mỗi lần luyện tập đều thấy chia thành hai nhóm, cũng chẳng hề nói với nhau một lời nào.”

Hoằng thấp giọng đáp: “Vâng. Đã rất lâu rồi chưa nói chuyện với nhau.”

Dung Dận sững sờ, hỏi: “Tại sao?”

Hoằng nói: “Đại giáo tập giận thần.”

Dung Dận truy đến cùng: “Vì chuyện gì mà lại giận lâu như vậy?”

Hoằng lâm vào tình thế khó xử, cả buổi vẫn không nói một chữ, bị Hoàng đế tra hỏi liên tục như vậy chỉ đành phải lựa lời khéo léo giải thích: “Đại giáo tập nói thần mê hoặc chủ nhân.”

Trong lòng Dung Dận bất chợt co thắt, bỗng chốc nghẹn họng không nói nên lời.

Y tự mình cho đòi người đến bên cạnh, lúc đó đã phái người đi thăm dò thân thế của Hoằng, kết quả lại vô cùng trong sạch. Hoằng là do đại giáo tập nhặt được ở bờ sông, vì không biết chăm sóc trẻ sơ sinh cho nên hắn đã đưa Hoằng vào Vô Hách Điện để tìm người hỗ trợ nuôi dưỡng, bản thân thì chỉ định kỳ đến để hỏi thăm sức khỏe. Chờ năm Hoằng lên ba, bất ngờ phát hiện ra hắn có căn cốt cực tốt, là một thiên tài võ học. Đại giáo tập sợ rằng người trong Vô Hách Điện dạy võ không tốt, dứt khoát tự mình nhập cung làm giáo tập để dạy dỗ hắn. Cứ như vậy vừa là nghiêm phụ vừa là từ mẫu, hắn nuôi dưỡng Hoằng không buồn không lo mà lớn lên, thuận thuận lợi lợi làm ngự tiền ảnh vệ, tiền đồ trước mắt vô cùng rực rỡ.

Thế nhưng mọi ươm mơ lại gãy cánh, bị y phá hủy.

Đại giáo tập đương nhiên vô cùng tức giận. Nhưng thiên tử vĩnh viễn thánh minh, hắn chỉ đành biết trút cơn thịnh nộ lên trên người Hoằng. Nhiều năm như vậy, một mình Hoằng không biết đã phải chịu đựng biết bao nhiêu oan ức.

Dung Dận vừa đau lòng vừa áy náy hỏi: “Đại giáo tập có đánh ngươi không?”

Hoằng vội đáp: “Không có. Hàng năm vào ngày lễ sinh nhật hắn, thần đều quỳ ở ngoài phòng của đại giáo tập thỉnh tội, hắn chỉ không để ý đến thần mà thôi.”

Dung Dận vô cùng đau lòng, sờ mặt Hoằng nói: “Oan ức cho ngươi rồi.”

Hoằng lắc đầu đáp: “Thần được phong làm ngự tiền ảnh vệ, bản thân tận tâm tận lực hầu hạ bệ hạ, cắt đứt tình riêng, làm sao oan ức cho được?”

Những lời lẽ nhạt nhẽo quen thuộc này Dung Dận đã được nghe bề tôi nói không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa có ai lại khiến cho y vừa nghe đã thấy đau lòng như vậy. Y đưa tay che lấy mắt Hoằng, chồm người qua ngậm lấy đôi môi Hoằng hôn rồi lại hôn, y thả tay xuống chạm hai chóp mũi vào nhau nói: “Ngoài miệng nói như vậy, trong mắt lại chẳng hề có ý đó. Đại giáo tập vẫn còn chịu ở lại trong Vô Hách Điện chứng tỏ hắn vẫn luôn nhớ đến ngươi. Người hắn giận là ta. Chúng ta cùng nhau nghĩ cách, cố gắng làm cho hắn hồi tâm chuyển ý.”

Hoằng rất phấn chấn, đáp: “Được.”

Dung Dận suy nghĩ hồi lâu, cho gọi vài cung nhân đến cẩn thận dặn dò một lúc.

Đêm đã về khuya.

Dưới mái hiên, từng dãy đèn nối nhau tạo nên những ánh lửa ấm áp, không ngừng lay động giữa gió lạnh đêm khuya. Một vài lời xì xào bàn tán chậm rãi luồn lách qua khắp các ngõ ngách của cung điện. Là truyền kỳ, là diễn nghĩa, là những truyền thuyết đầy màu sắc rực rỡ, chuyện nhàm chán, vặt vãnh, tầm thường của ban ngày lại trở thành những vầng sáng thần bí đẹp đẽ lạ thường vào ban đêm thông qua lời kể của các cung nhân. Những chuyện đồn đãi này mãi vẫn chỉ xoay quanh vị Hoàng đế ở xa không với tới kia, mang thói quen cưng chiều của y, những thứ y chán ghét mà vất bỏ, sở thích của y và cả những hình phạt tàn khốc phóng đại lên đến tận mây xanh, vặn vẹo cải biên thành những câu chuyện đáng sợ không tài nào tưởng tượng ra được, từ miệng truyền đến tai, rồi lại tam sao thất bản đồn đại ra bên ngoài.

Hai cung nhân đang làm nhiệm vụ trong Vô Hách Điện tuần tra khắp các cung thất một vòng, sau đó tìm một góc lặng gió ngồi xuống nghỉ ngơi. Tối nay bọn họ muốn bàn luận về người mà gần đây đế vương say mê như điếu đổ. Nghe nói người kia là ngự tiền ảnh vệ xuất thân từ cung điện của bọn họ, hiện giờ đang được sủng ái nhất, đế vương ban cho hắn đủ loại châu báu, nhiều đến mức có thể chôn thây luôn ở trong đó. Ảnh vệ đó lúc ban đêm đi tuần, tay cầm theo một viên dạ minh châu lớn bằng quả trứng gà, ngay cả đèn lồng cũng thua xa. Các nữ quan thừa ân ngưỡng mộ vô cùng, nghe đâu có người từng lén trộm đi viên đá quý yêu thích của ảnh vệ đó, về sau bị đánh chết tươi trên ngay bậc thềm cung điện.

Hai người bọn họ đang chuyện trò hớn hở, đột nhiên nghe thấy tiếng đằng hắng, cánh cửa sổ nhỏ trên đỉnh đầu bỗng dưng mở ra. Giọng nói già nua vừa uy nghiêm vừa lạnh lùng vang lên: “Đã khuya rồi, hãy tìm nơi khác để trò chuyện.”

Vị này chính là đại giáo tập trong Vô Hách Điện, xưa nay ăn nói nghiêm túc người người kính sợ. Hai người kia không dám nói năng gì nữa, lặng lẽ rời đi.

Có thể là do chỗ này của hắn quả thật rất thư giãn, cũng có thể vì hoàn cảnh của vị ảnh vệ kia rất đáng để cho người ta ngưỡng mộ, đã liên tiếp mấy ngày, những cung nhân đi làm nhiệm vụ không hẹn mà đều ngồi dưới cánh cửa sổ này nhắc đến những tin đồn gần đây trong cung, nói rằng vị ảnh vệ kia được cưng chiều đến mức nào, địa vị tôn quý ra sao, đế vương vì hắn mà từng dầm mưa trong đêm, đồng thời mang toàn bộ bảo bối quý giá nhất ở trong cung tặng cho hắn. Bọn họ sợ quấy rầy đại giáo tập nên chỉ tụm lại với nhau xì xào bán tán, đợi đến khi có ánh đèn sáng lên hắt ra từ trong cánh cửa sổ nhỏ mới vội vàng thức thời ngậm miệng lại. Nhưng chỉ chốc lát sau, bọn họ không nhịn được lại bàn ra tán vào.

Hậu cung tranh sủng từ trước đến nay luôn là đề tài được cung nhân yêu thích nhất. Những loại truyền thuyết nửa thật nửa giả này được lặng lẽ lưu truyền trong cung rất nhanh chóng. Lúc đại giáo tập đi nhận y phục mùa thu, tình cờ nghe thấy hai bà mụ chuyên về may vá đang ngồi phơi nắng tám chuyện, kể chuyện như thật, rằng nữ quan thừa ân vì tranh sủng mà đã hãm hại ảnh vệ như thế nào. Hắn dừng chân, nén xuống lửa giận ngút trời, sắc mặt xanh mét xoay gót về điện.

Tin đồn thất thiệt về ảnh vệ được cực kỳ sủng ái kia cũng không lưu truyền quá lâu. Gần vua như gần cọp, ước chừng qua mấy ngày, ngọn gió đổi chiều, đế vương giận cá chém thớt lên đầu ảnh vệ, tin đồn bị phạt đánh trượng lại được truyền ra bên ngoài. Trí tưởng tượng của cung nhân được đà bay xa, kể lại những hình phạt tàn khốc sặc mùi máu tanh của đế vương sống động như thật. Mọi người ai ai cũng xót thương thở dài, một vài cung nhân biết rõ nội tình còn lén lút truyền ra tin mật, kể chuyện các thừa ân nữ quan bỏ đá xuống giếng như thế nào, thừa cơ hạ nhục ảnh vệ ra sao, làm nhiều điều ác độc đến mức không thể nào chịu nổi. Nhưng nói cho cùng vị ngự tiền ảnh vệ này dù sao cũng là người đầy thủ đoạn, chưa được mấy ngày đã khiến Hoàng đế hồi tâm chuyển ý, lần nữa cho đòi ảnh vệ quay về hầu hạ, còn ban tặng rất nhiều châu báu để bồi tội. Các thể loại đồn đại như vậy cứ mượn gió mà lên, nội dung biến hóa khôn lường, đại giáo tập nghe xong lửa giận bốc lên nghi ngút.

Đến tối hôm đó, có vài cung nhân rảnh rang ngồi ở hành lang uống rượu, bỗng có người thở dài một tiếng, nói rằng dù sao thì vị ngự tiền ảnh vệ kia cũng là người của Vô Hách Điện, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, nhìn thấy cảnh ngộ của hắn thê thảm đến vậy, trong lòng cũng không khỏi thấy khó chịu. Thì ra hôm qua ở trong cung có đại biến, Hoàng đế long nhan giận dữ xuống tay độc ác, áp dụng tất cả các hình phạt tàn khốc ở trong cung lên người hắn. Người ảnh vệ kia tuy có xuất thân là võ giả nhưng lại chẳng thể thốt lên một lời nào, hiện giờ sống chết chưa rõ. Ảnh vệ vốn là cô nhi được gửi nuôi nhờ ở trong cung, bây giờ bên cạnh hắn đến một người thân cũng không có, chẳng được ai quan tâm chăm sóc như vậy quả thật vô cùng đáng thương. Đáng tiếc thân phận của bọn họ cũng chỉ là những cung nhân hèn mọn, ngay cả nội điện cũng không được phép đặt chân vào, chỉ có thể ngồi đây thương hại, không cách nào giúp đỡ dù chỉ chút ít. Ngay sau đó lại có người sáp vào nói rằng một mình hắn phải chịu đựng biết bao nhiêu lần trút giận của đức vua, ngày ngày căng thẳng, lạnh lẽo biết bao.

Đại giáo tập ngồi ở trong phòng nghe, vừa tự an ủi bản thân rằng tin đồn ở trong cung tuyệt đối không thể tin, lại vừa suy nghĩ chuyện gì đồn ra cũng phải có nguyên nhân của nó, tin đồn cũng chưa chắc đã hoàn toàn là vô căn cứ. Trăm suy ngàn nghĩ quay cuồng cả một đêm không ngủ được.

Đến ngày hôm sau, lại có giờ luyện võ. Đại giáo tập đến phòng luyện công thật sớm ngồi chờ, kết quả lúc Hoàng đế bước vào lại không thấy có Hoằng đi theo. Trong lòng hắn cực kỳ sốt ruột, nào có tâm tư dạy dỗ gì nữa? Cuối cùng chỉ đánh vài chiêu qua loa lấy lệ.

Liên tiếp hai lần Hoằng không đến lớp luyện võ, đại giáo tập bắt đầu nghi ngờ tin đồn kia là đúng sự thật. Hoàng đế thâm trầm tàn bạo đến mức nào, Hoằng rơi vào trong tay y chẳng phải là muốn gieo tai họa lập tức có tai họa hay sao? Hoằng lại là một người ngây thơ, dễ xấu hổ, ngốc nghếch như thế làm sao có thể nghĩ ra thủ đoạn để tự bảo vệ mình? Càng nghĩ càng lo âu đến mức tức giận, đến giờ học võ kế tiếp, thật hiếm hoi mới lại thấy Hoằng xuất hiện, nhìn thế nào cũng thấy đứa trẻ này thật sự quá tiều tụy, hắn rốt cuộc không nhịn được nữa, đợi đến lúc Hoàng đế đi thay quần áo lập tức mở miệng hỏi: “Bệ hạ đối xử với ngươi thế nào?”

Đây là lần đầu tiên trong suốt mấy năm qua đại giáo tập chủ động nói chuyện với Hoằng. Hoằng chợt giương mắt về phía hắn, đôi môi run run, ngàn câu vạn chữ không cách nào nói lên lời. Thật lâu sau mới nhịn xuống được bao nhiêu tủi thân và khổ sở, rũ mi mắt nhẹ giọng nói: “Ân huệ hay trách phạt cũng đều là ơn vua.”

Đại giáo tập bất chợt sụp đổ. Tiến lên một bước muốn hỏi hắn thêm vài câu thì Hoàng đế đột nhiên lại bước ra. Hắn chỉ đành phải nén xuống, trơ mắt nhìn Hoằng cẩn thận quay đầu đi theo Hoàng đế, giận đến mức đầu óc rối loạn.

Hoằng cực kỳ vui mừng, vừa ra khỏi Vô Hách Điện đã không nhịn được, quay sang nói với Dung Dận: “Đại giáo tập quan tâm đến thần.”

Dung Dận đáp: “Hãy cố chịu đựng. Dựa theo sự sắp xếp của ta, bảo đảm sau này hắn sẽ không có cách nào bỏ rơi ngươi được nữa.”

Chớp mắt đã đến giờ học võ tiếp theo, lúc Dung Dận đi thay quần áo, Hoằng cùng đại giáo tập dẫn theo cung nhân chia nhóm đứng hai bên chờ. Đại giáo tập tỏ vẻ vờ như không có chuyện gì xảy ra nói: “Nếu ngươi rảnh rỗi, hãy đến chỗ của ta ngồi một chút.”

Hoằng vô cùng cảm kích, lại thấy tủi thân, ngẩng đầu lên đáng thương trông mong nhìn hắn, hệt như lúc còn bé vậy. Trong nháy mắt đại giáo tập tan nát cõi lòng, ném hết tức giận hay mặt mũi gì đó sang một bên, khàn giọng nói: “Không giận ngươi.”

Hoằng còn đang muốn nói gì đó, mắt thấy Hoàng đế đi ra lập tức câm như hến, cúi thấp đầu theo sát y, để lại đại giáo tập đằng sau lưng khó chịu ấm ức.

Lại thêm mấy ngày nữa trôi qua, Dung Dận cho cung nhân ngưng việc đồn đại, cũng không nhắc lại chuyện của Hoằng, giờ luyện võ cũng không mang hắn theo nữa. Đại giáo tập trong phút chốc mất tin tức của Hoằng, ngay cả bóng người cũng không thấy được, bỗng nhiên lo lắng vô cùng. Hắn cũng không đoái hoài ra vẻ nữa, tự mình chạy đến cung thất của ngự tiền ảnh vệ để tìm hiểu tin tức, mọi người ở đây sớm biết đại giáo tập đã không nhìn mặt Hoằng từ lâu, lúc này thấy hắn vẻ mặt tràn đầy lo lắng chạy đến không khỏi kinh ngạc. Mấy ngày trước, hết lần này đến lần khác Hoằng đại nhân đã từng căn dặn, bảo là phải bí mật phụng chỉ hành sự, muốn mọi người không ai được phép tiết lộ hành tung của hắn. Chúng ảnh vệ liếc mắt ra dấu lẫn nhau, muốn nói lại thôi, ấp a ấp úng bảo rằng không nhìn thấy hắn. Một chiêu này thật sự đã khiến cho đại giáo tập đứt từng khúc ruột, lục phủ ngũ tạng đua nhau dằn xé, một bụng tức giận hướng về Hoàng đế nhưng không cách nào trút ra, chỉ đành ở trong giờ học võ xuống tay thật ác, ra sức dày vò Dung Dận.

Hiện giờ Dung Dận đối với giờ luyện võ cũng chẳng còn cảm giác gì nữa, đến buổi tối thân thể nặng nề, khắp nơi đau nhức rất bực bội. Hoằng xem qua cho y, biết rõ đại giáo tập sử dụng lực mạnh, đau lòng không chịu được, đến ngày hôm sau lập tức trở về Vô Hách Điện tìm đại giáo tập.

Hắn bước đến cửa phòng nhưng lại rụt rè e sợ đứng bên ngoài không dám đi vào, nấp ở đằng sau chậu hoa, lòng tràn ngập do dự lo sợ không yên.

Đại giáo tập hận hắn mê hoặc chủ nhân, đã nhiều năm rồi không cho hắn bước vào nơi này nữa.

Mỗi năm đến dịp sinh nhật người, hắn thường quỳ ở bên ngoài xin tạ tội, nhưng cho đến tận bây giờ đại giáo tập vẫn chưa từng để ý đến hắn.

Đại giáo tập muốn hắn phải là tướng quân. Vì thế đã tiêu hao không biết bao nhiêu tâm huyết công sức cho riêng hắn. Lúc hắn thông qua tuyển chọn mà trở thành ngự tiền ảnh vệ, đại giáo tập đã vui mừng đến mức uống hết hai chén rượu, nói mười năm sau sẽ cùng hắn đến Bắc Cương dẫn binh đánh trận. Lại còn mặt mày hớn hở kể cho hắn nghe không biết bao nhiêu là sự tích của các vị tướng quân anh hùng.

Thế nhưng mình lại khiến cho hắn phải thất vọng.

Trên cõi đời này nào có vị võ giả nào lại đi thừa ân? Mình đã ném đi mặt mũi của hắn, còn để cho hắn không tài nào ngóc nổi đầu trước mặt một đám lão hữu.

Cũng không thể rời cung đi đến Bắc Cương được nữa.

Đại giáo tập tàn nhẫn trách mắng hắn, từ đó ân đoạn nghĩa tuyệt, không còn để ý đến hắn nữa. Hắn đã rất nhiều lần trở về cầu xin, nhưng càng cầu xin thì đại giáo tập lại càng tức giận, có một lần tức giận đến mức sinh bệnh khiến hắn sợ hãi không dám miễn cưỡng nữa.

Nhưng hắn biết rõ trong lòng đại giáo tập vẫn còn nhớ đến hắn. Mặc dù không để ý tới hắn nhưng vẫn lưu lại trong cung để giúp đỡ hắn.

Lúc đại giáo tập rốt cuộc cũng mở miệng nói chuyện, hắn vui mừng đến mức không thể nhịn nổi. Nhưng hiện giờ đứng trước cửa phòng của đại giáo tập, hắn lại cảm thấy sợ hãi vô cùng.

Hắn đứng ở ngoài phòng dày xéo cả buổi, đại giáo tập ngồi xếp bằng trên giường bên trong, từ sớm đã biết là hắn tới, đợi mãi rốt cuộc cũng không nhịn được nữa, thở dài nói: “Vào đi.”

Hoằng vội vàng tiến vào trong phòng, vừa nhìn thấy đại giáo tập đã lập tức quỳ xuống hành lễ. Hắn đã học được tinh túy từ Dung Dận, lúc này trong lòng có tính toán, nhịn xuống nỗi vui mừng, thi lễ xong cũng không chịu đứng dậy, chỉ quỳ ở mép giường mặt mày vừa sợ hãi vừa bất lực, tay khoác lên mép giường nhẹ giọng nói: “Đại giáo tập.”

Đã từng nói ân đoạn nghĩa tuyệt, bây giờ lại nuốt lời tự mình gọi người vào phòng, vẻ mặt của đại giáo tập mười phần không thể nén giận nổi, nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ trông chờ đáng thương của Hoằng, hắn ngay lập tức quên sạch chút xấu hổ của mình. Nhìn đứa trẻ này vừa nhợt nhạt vừa tiều tụy, trong lòng hắn tựa như tan vỡ, giọng khàn khàn nói: “Ngươi nên gọi ta là gì?”

Vành mắt Hoằng bỗng chốc đỏ hồng, sửa lời nói: “Phụ thân.”

Hai chữ vừa nói ra, bao nhiêu tủi thân khổ sở hắn kiềm nén lâu nay cũng không thể nhịn được nữa, trong mắt thoáng chốc ngập tràn ánh nước, vội vàng cúi đầu lau đi. Đại giáo tập nói không có mặt mũi để làm phụ thân của hắn, từ lâu đã không còn cho phép hắn được gọi như vậy nữa rồi. Vốn cho rằng mình giờ là một người không có phụ thân, không nghĩ tới lại chờ được đến ngày đại giáo tập hồi tâm chuyển ý. Hắn dụi mắt cả buổi, đỏ mắt kêu lại một tiếng: “Phụ thân.”

Đại giáo tập thở dài, sờ đầu Hoằng một cái, tựa như trước kia kéo Hoằng lên ngồi trên giường cùng với mình. Ngày xưa lúc Hoằng gặp chuyện, hắn vừa thấy đã nghĩ đứa trẻ này chỉ là đồ bỏ đi, cảm thấy tức giận và sỉ nhục vô cùng. Nhưng bây giờ nghe nói Hoằng phải chịu khổ, hắn ngày ngày đêm đêm chỉ biết cầu bình an, làm sao tiếp tục để ý chuyện đến Hoằng còn có thể kiến công lập nghiệp hay không? Hắn cẩn thận quan sát cả buổi cũng không nhìn thấy Hoằng bị thương ở chỗ nào, lập tức khàn giọng hỏi: “Vẫn khỏe chứ?”

Hoằng buồn buồn “Vâng” một tiếng.

Đại giáo tập kinh ngạc nhìn hắn, bỗng chốc lại cảm thấy xót thương. Trong cung cách thức hành hạ người nhiều vô số kể, chuyện có thể tâm sự với người khác chẳng quá một hai chuyện. Sự tình trong cung vua hắn không có cách hỏi, Hoằng cũng chẳng thể nào nói ra. Hỏi một câu có khỏe hay không, ngoại trừ vâng thì còn có thể đáp ra sao được nữa? Hắn yên lặng ngồi một hồi, thấy Hoằng lại bắt đầu dụi mắt, lập tức đi đến mở cửa sổ, thò người ra phía cây hồng ở bên ngoài, hái một quả lớn nhất đỏ nhất xuống thả vào trong lòng bàn tay Hoằng, nói: “Ăn đi, ngọt.”

Hoằng được thương mà sợ, hai tay nâng trái hồng, cảm động không nói nên lời. Cây hồng bên ngoài cửa sổ hàng năm chỉ kết được mười mấy trái, nhưng trái nào cũng mọng nước láng bóng, vừa lớn vừa ngọt. Đại giáo tập ngày ngày trông coi, năm nào cũng đếm xem hồng kết được bao nhiêu quả, trời mưa còn lấy giấy thấm dầu ra bọc lại. Chờ hồng chín rồi sẽ hái xuống làm bánh hồng nướng, giữ lại đến tết để mang đi tặng người khác. Từ nhỏ đến lớn mỗi lần Hoằng muốn ăn đều là nhờ vào trộm lén, cũng vì vậy mà không biết đã bị ăn đánh bao nhiêu lần, đây chính là lần đầu tiên đại giáo tập tự tay hái cho hắn.

Đại giáo tập thấy Hoằng ôm trái hồng không nói lời nào, trong lòng lại càng khó chịu hơn, nói: “Ăn đi, đây là trái đầu tiên chín đỏ. Trên cây vẫn còn nhiều, chờ đến lúc chín rồi sẽ hái cho ngươi ăn hết.”

Hoằng vô cùng cảm động, hốc mắt lại đỏ bừng, thấp giọng đáp: “Phụ thân vẫn còn quan tâm ta.”

Đại giáo tập nói: “Chẳng có gì tốt hơn việc ngươi vẫn bình an cả.”

Đại giáo tập cả đời kiêu ngạo quật cường, chưa bao giờ chịu nhượng bộ nhận sai, là một nhân vật đống phân cứng ngắc cũng có thể rỉa ba năm, hôm nay để lộ ra chân tình, lại nuốt xuống toàn bộ những lời cay nghiệt mà mình đã nói ra năm đó, Hoằng vô cùng cảm động và áy náy, hận không thể nói thật chuyện mình bắt tay với Hoàng đế lừa gạt hắn, để phụ thân không cần phải thương tâm nữa. Hắn ôm trái hồng, ngước mắt nhìn đại giáo tập, thận trọng nói: “Bệ hạ đối với ta rất tốt, phụ thân không cần phải lo lắng.”

Đại giáo tập bỗng chốc bực mình, vỗ vạt giường gào lên: “Tốt cái gì! Nếu hắn thật sự đối tốt với ngươi thì phải nên thay ngươi suy nghĩ đến tiền đồ, cho ngươi rời cung chứ!”

Hoằng hoảng sợ rụt người lại, không dám nói thêm gì nữa. Thấy phụ thân lại bắt đầu nổi giận, vội vàng tìm một lý do để cáo từ, xách mông chạy thẳng.

Hắn rời khỏi Vô Hách Điện, trong lòng tràn ngập vui mừng, mang trái hồng đi rửa sạch sẽ rồi mang đến ngự thư phòng cho Dung Dận ăn, nói: “Phụ thân cho thần.”

Dung Dận thấy hắn đã sửa lại xưng hô, biết rằng có tiến triển thuận lợi, cười hỏi: “Ngươi đã nói như thế nào?”

Hoằng đáp: “Thần nói bệ hạ đối xử với thần rất tốt.”

Dung Dận tiếc nuối nói: “Ngươi nên khẳng định lại câu ân huệ hay trách phạt cũng đều là ơn vua, khiến cho hắn ngày đêm lo lắng, không nỡ lòng nào trút giận lên đầu ngươi nữa.”

Hoằng nhẹ giọng đáp: “Không đành lòng làm khó hắn thêm nữa.”

Dung Dận cả giận: “Hắn đã làm cho ngươi khổ sở đau lòng biết bao nhiêu? Phải khiến hắn trả lại cả vốn lẫn lời.”

Hoằng vừa nhìn đã nhận ra Hoàng đế đang tức giận, vội vàng mang trái hồng ra để lấy lòng y, đặt lên một chiếc mâm nho nhỏ đẩy tới trước mặt Dung Dận nói: “Quả này cực kỳ ngọt.”

Trái hồng đã chín mềm, nước đậm đà đỏ thẫm khiến cho lớp vỏ mỏng trong suốt trở nên căng bóng. Dung Dận cắn rách một phần vỏ, hút một hơi rồi cười nói: “Quả thật rất ngọt.”

Y kéo Hoằng đến ngồi đối diện mình, hai người cách nhau một chiếc bàn nhỏ, mỗi người một bên cùng hút trái hồng mọng nước ngọt lịm. Chờ trái hồng lớn dần dần xẹp xuống, chóp mũi của hai người bọn họ bất chợt chạm vào nhau, thuận thế trao nhau chiếc hôn ngọt ngào.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện