Thủy vô định, hoa hữu tận, hội tương phùng
Khả thị nhân sinh trường tại, biệt ly trung. [1]
1. Cây đinh
Đến tận hôm nay, Chúc Yên Hồng vẫn nhớ rõ ánh nắng hôm đó nhu hòa, trong trẻo biết bao, lại vô cùng ấm áp...
Lúc đó bầu không khí trong Phong Lẫm các nặng nề, gương mặt mỗi người ngập trong phẫn nộ vì bị khuất nhục, ai cũng tâm sự trùng trùng, tuyệt cảnh sắp giáng xuống mà họ đều bất lực.
Chỉ trừ nàng.
Nàng thả mình vào nắng tháng tám đầu thu, thư thả cảm thụ mùi vị của ánh nắng, ngắm nhìn từng tia nắng từ tốn lọt qua song cửa rải xuống sảnh đường. Nơi nào ánh nắng chiếu qua, nàng đều nhìn rõ từng hạt bụi li ti bị gió khẽ lay động, tản mác khắp phòng, phảng phất chúng cũng đang được gột rửa sạch bong.
Nàng cảm nhận được ánh nắng chậm rãi men theo ngạch cửa, lên chấn song, lên bàn ghế, xà nhà rồi lủi thủi bò lên khuôn mặt mỗi người.
Lúc đó nàng nghĩ ánh nắng cũng như khúc nhạc bình lặng.
Ánh nắng bình lặng đậu lên một gương mặt bình lặng. Ấy là chồng nàng - Minh chủ của Ngũ Kiếm liên minh Lôi Nộ.
Y không hề nổi giận, gương mặt vẫn trơ khấc như khúc gỗ, không biểu lộ tình cảm. Tay y vẫn ổn định, nổi đầy những đường gân xanh ngoằn ngoèo đan nhau, nắm chắc thanh Nộ Kiếm vẫn theo bên mình suốt mười tám năm nay.
“Chỉ có tám người các vị thôi sao?”
Y bình tĩnh hỏi, kỳ thật y cũng biết trước đáp án, lên tiếng hỏi chẳng qua không muốn tám người cuối cùng bám trụ lại hiểu rằng y vô năng trước tình thế này. Dùng lời lẽ cũng là một cách chuyển hướng áp lực cho tâm lý.
Hồng Hoang Kiếm Giang Chấp Phong vòng tay: “Bẩm Minh chủ, sau khi nhận được Tướng Quân lệnh, bọn thuộc hạ tuân theo ý ngài, mặc cho đệ tử bản minh tự quyết định có ở lại cùng tồn vong với sơn trang hay không. Hơn mười ngày nay, hôm nào cũng có người buông vũ khí rời khỏi Ngũ Kiếm sơn trang, hiện giờ cả Ngũ Kiếm liên minh chỉ còn lại tám người bọn thuộc hạ”. Hắn hơi dừng lại rồi quả quyết: “Bọn thuộc hạ quyết cùng tiến lui với Minh chủ, chống lại Tướng Quân lệnh”.
Lôi Nộ trầm tư, vỗ bàn đứng lên: “Từ hôm nay trở đi, trên giang hồ không còn cái gọi là Ngũ Kiếm liên minh, ta cũng không phải là Minh chủ gì hết, chúng ta là huynh đệ, huynh đệ đồng sinh cộng tử”.
Giọng y không lớn nhưng đượm hào khí, bàn tay cầm kiếm vẫn ổn định, không hề run rẩy.
Nhưng lúc đó nàng đứng sau lưng y, đang nhìn ánh nắng tràn khắp sảnh đường thong thả leo lên cổ y, trên cần cổ bạnh ra lộ rõ đường gân xanh có một giọt mồ hôi chậm rãi chảy xuống, rồi như một con trùng nhỏ xíu chui vào cổ áo.
“Tám người?” Nàng thầm nghĩ, đến giờ y vẫn không tính bản thân nàng vào số những người ở lại sao? Nàng là gì? Là nữ nhân của y, vật phụ thuộc vào y, hoặc là đồ chơi của y chăng? Nàng cười, nụ cười vô thanh. Nét cười từ trên gương mặt nàng, dần dần ngưng thành một đường cong yêu kiều, dấy lên một vừng hồng trên gò má, tan chảy trong sảnh đường lạnh lẽo, hòa vào ánh nắng...
Lôi Nộ cảm ứng được nụ cười của nàng, ngoái lại nhìn với vẻ kỳ quái, lòng y thoáng ân hận xót xa.
Trong tình cảnh ai nấy chỉ lo bỏ trốn, vì cớ gì nàng vẫn không rời bỏ y? Vì nàng yêu y? Hay vì nàng không còn nơi nào để đi?
Y thầm lắc đầu, cố xua đi nỗi nghi ngờ vấn vít trong lòng.
Vô luận thế nào, nàng vẫn ở lại, không phải vì Ngũ Kiếm liên minh, chỉ vì y.
Thế, cũng đủ rồi.
“Minh chủ sai rồi, không phải tám người, là mười người”. Một giọng nói thong thả cất lên ngoài cửa.
“Choang”. Trừ Lôi Nộ và Chúc Yên Hồng, tám người trong sảnh đường đồng thời tuốt kiếm, kiếm có tám thanh, tiếng bạt kiếm chỉ có một.
Lôi Nộ không bạt kiếm, tuy y kinh ngạc hơn cả tám thủ hạ nhưng y phải giữ bình tĩnh.
Là một thống lĩnh mà mất đi bình tĩnh, nỗi sợ hãi sẽ truyền nhiễm sang mỗi thủ hạ như ôn dịch, thậm chí cả ý chí chiến đấu của họ cũng tan biến luôn.
Trong tình huống Tướng Quân lệnh đưa tới đã mười ngày, nếu mất đi ý chí chiến đấu, chỉ còn lại một việc đợi y - chết!
Người này có thể vô thanh vô tức xuất hiện ngoài Phong Lẫm các, nhất là trong tình huống bão bùng sắp nổi, ai nấy đang giới bị, càng khiến người ta không tin nổi.
Trên đời quả thật có người thần không hay quỷ không biết xuất hiện trước mặt Minh chủ Ngũ Kiếm liên minh Lôi Nộ cùng Bát Đại Hộ Pháp chăng?
Có - vì, kẻ đó đã xuất hiện.
Thanh niên đó tùy tùy tiện tiện đứng ở cửa sảnh, tay cầm một tấm lệnh bài đen ngòm. Ánh nắng phảng phất mờ hẳn, bởi tấm lệnh bài đó là Tướng Quân lệnh người giang hồ nghe đến liền biến sắc.
Đó là tấm Tướng Quân lệnh thứ hai Ngũ Kiếm sơn trang nhận được.
Lần thứ nhất từ mười ngày trước. Người truyền lệnh là một người hầu câm của phủ Tướng Quân.
Người câm mặt mũi thản nhiên, chân phải bị tật nhưng không ai dám coi thường, trong vòng ba chiêu hắn đánh gục sáu đệ tử Ngũ Kiếm liên minh, ngạnh tiếp nửa chiêu với Cầm Thiên Kiếm Quan Ly Tinh, một trong Bát Đại Hộ Pháp, rồi mới đi vào Phong Lẫm các, cung cung kính kính đưa Tướng Quân lệnh cho Lôi Nộ.
Đi kèm có một phong thư viết đúng chín chữ: “Trong vòng một tháng, giải tán Ngũ Kiếm minh!”
Quân lệnh sơ chí,
Mạc cảm bất tòng;
Quân lệnh tái chí,
Thùy dữ tranh phong;
Quân lệnh tam chí,
Huyết lưu thành hà. [2]
Trong khoảnh khắc, Ngũ Kiếm liên minh hùng mạnh tan rã, chỉ còn lại mấy người trong sảnh đường - Minh chủ Lôi Nộ cùng Bát Đại Hộ Pháp.
Lần này Tướng Quân lệnh mang theo tai họa gì?
Tròng mắt Lôi Nộ rút lại, nhìn chằm chằm tấm Tướng Quân lệnh khiến y lâm vào cảnh thân hữu ly tán, hô hấp cũng cơ hồ ngưng trệ.
Tướng Quân lệnh thật ra có ma lực gì mà khiến bầu máu nóng của nam nhi giang hồ lạnh băng, can đảm tan chảy?
Nhưng thanh niên này lại tùy tùy tiện tiện nắm chặt Tướng Quân lệnh, phong thái tự nhiên, thoải mái như xa phu cầm roi, như một nữ tử bán hoa tươi cầm giỏ hoa...
Sắc mặt gã thản nhiên, không nanh ác tựa mãnh thú vồ mồi như người hầu câm, mà bình thản, không lo lắng đến vạn sự, cơ hồ không coi tấm lệnh bài chết chóc ra gì.
Tướng Quân lệnh trên tay gã không hề mang lại cảm giác uy hiếp, tuyệt không vì cầm lệnh bài mà gã toát ra sát khí, hình như gã và lệnh bài là hai vật chất cách tuyệt, lệnh là lệnh, gã là gã. Ai nấy có cảm giác gã chỉ vô tình cầm Tướng Quân lệnh tới đây.
Lôi Nộ cố gắng rời ánh mắt khỏi lệnh bài, lạnh lùng hỏi thanh niên: “Còn hai người nữa là ai?”
Thanh niên mỉm cười, như ánh nắng khắp phòng đột nhiên tụ tập lên gương mặt vốn lạnh lùng của gã, mở ra một tuyến sinh cơ. Gã quăng nhẹ, Tướng Quân lệnh như một sợi lông bay đến cắm xuống bàn Lôi Nộ đang ngồi, phát ra âm thanh chát chúa, hiển nhiên kình lực rất mạnh, nhưng mọi vật phẩm trên bàn không hề lay động.
“Còn có hai người, một là tôn phu nhân, người còn lại đương nhiên là tại hạ”.
Gã không cao lớn nhưng khiến người đối diện có cảm giác vững chãi, cũng như một cây đinh đóng cứng xuống đất, dù dùng sức mạnh thế nào cũng khó lòng lay đổ.
Cây đinh đó đóng chặt vào tim Chúc Yên Hồng, găm thật sâu, phảng phất khẽ chạm vào sẽ khiến xương cốt đau nhói.
Tất thảy vây thanh niên lại, nàng không dám động đậy, e sẽ khiến cây đinh găm sai chỗ, không thể cắm sâu vào thân thể nàng...
Trong một sát na, nàng chỉ biết rằng giọng nói đầy kiên định từ ngoài cửa truyền vào rất dễ nghe, so với giọng chồng nàng và thủ hạ thiếu đi ba phần sát khí, nhiều hơn ba phần thư thả, thêm cả một phần bình thản.
Mục quang bao người dồn hết lên tấm lệnh bài đen ngòm, nàng là người duy nhất nhìn mặt thanh niên.
Vì thế đến tận hôm nay, nàng vẫn nhớ rõ ánh nắng hôm đó nhu hòa, trong trẻo biết bao, lại vô cùng ấm áp...
Đến tận hôm nay nàng vẫn không hiểu rõ, ánh nắng hôm đó vốn đã chói lòa như vậy, hay vì gã xuất hiện khiến ánh nắng u sầu được gột sạch, có thêm một phần sinh cơ!?
2. Thanh danh
“Lôi Nộ là người thế nào?” Trung niên mặc áo sáng màu lên tửu lâu, đi thẳng đến chỗ lão nhân ngồi cạnh cửa sổ, khẽ hỏi.
Lão nhân bất động, nhìn rượu trong chén: “Câu này trị giá mười lạng bạc”.
“Cộp”. Một đĩnh bạc rơi mạnh xuống bàn, ly chén bày trên không hề lay động, cả rượu trong chén cũng không mảy may gợn lên.
Đĩnh bạc phải đến hai chục lạng.
Lão nhân hình như không nhìn thấy gì, lắc đầu: “Tại hạ đã nói là mười lạng, thêm một tiền không cần. Ngài có thấy Ngô Hý Ngôn nói ra rồi không giữ lời bao giờ chăng?”
Trung niên cười vang: “Hay cho Quân Vô Hý Ngôn, tiên sinh có thấy tại hạ lấy bạc ra rồi thu về bao giờ không?”
Lão nhân ngẩng lên nhìn: “Đại tổng quản quả có phong độ Đại tổng quản, không hiểu ngài đến hỏi hay tỏ uy phong?”
Trung niên còn ai khác Đại tổng quản phủ Tướng Quân ở kinh sư, cùng Minh tướng quân được tôn xưng là một trong Lục Đại Tôn Sư của giang hồ hắc đạo, dựa vào đôi Hàn Tẩm chưởng nổi danh thiên hạ: Thủy Tri Hàn.
Lão nhân nhếch nhác chính là Ngô Hý Ngôn được người giang hồ xưng tụng Quân Vô Hý Ngôn, tự xưng với giang hồ không gì không biết nhưng đề ra giá cả rõ ràng bán tin tức, xưa nay chưa từng cho ai nợ. Y du hý phong trần, lúc chính lúc tà, đối diện với Đại tổng quản phủ Tướng Quân ở kinh sư dưới vài người mà trên vạn người vẫn lạnh lùng trào phúng.
Mắt Thủy Tri Hàn lóe lên tinh quang, dùng ngón tay kẹp lấy đỉnh bạc, cười ha hả: “Ngô tiên sinh đừng nổi nóng, là Thủy mỗ không phải. Có điều cắt đĩnh bạc này, nếu nhiều hơn hay kém đi nửa tiền thì phải làm thế nào?”
Ngô Hý Ngôn uống cạn chén rượu: “Tổng quản khiêm tốn quá, tay ngài cắt vật gì mà thiếu đi nửa phân, từ đây tại hạ kiêng rượu”.
“Canh”, đĩnh bạc đứt đôi, chỉnh tề như được cắt bằng đao búa.
Ngô Hý Ngôn hân hoan nhét nửa đĩnh bạc vào ngực áo: “Vấn đề Thủy tổng quản vừa hỏi chỉ e không đơn giản như bề ngoài?”
Thủy Tri Hàn cười: “Tiên sinh cứ nói”.
Ngô Hý Ngôn lại thong thả châm đầy chén, mắt hiện lên một tia u uất: “Lôi Nộ xuất thân Giang Nam Phích Lịch đường, là con thứ sáu của Đường chủ Lôi Loạn Phong nhưng từ nhỏ đã nhận định võ công bản môn đa phần dựa vào uy lực của hỏa khí nên đầu thân vào các đại kiếm tông ở Giang Nam, trong chín năm tập thành bảy pho kiếm pháp, lại đi khắp nơi tìm danh sư, sau cùng kiếm pháp đại thành. Năm năm trước y liên hợp năm môn phái Lưu Ảnh, Truy Phong, Lộng Nguyệt, Bôn Lôi, Khiếu Điện thành lập Ngũ Kiếm liên minh, được tôn làm Minh chủ, thế lực hơn hẳn các phái ở Giang Nam, vì thế bị Minh tướng quân ôm chí nhất thống giang hồ nghi ngại. Mười hai ngày trước, Minh tướng quân công nhiên hạ Tướng Quân lệnh hạn định cho y trong vòng một tháng phải giải tán liên minh, bằng không... Thủy tổng quản chắc không cần tại hạ nói tiếp”.
Thủy Tri Hàn vỗ tay cười vang: “Câu trả lời này hình như không phải ý Thủy mỗ muốn hỏi, mỗ muốn biết Lôi Nộ là hạng người thế nào, tính cách ra sao, có sở thích gì đặc biệt...”
Ngô Hý Ngôn uống cạn một chén nữa: “Năm mươi lạng”.
Thủy Tri Hàn lấy làm lạ: “Sao giá đột nhiên lại cao hẳn lên?”
Ngô Hý Ngôn thở dài: “Là năm chục lạng hoàng kim”.
Thủy Tri Hàn nhìn hai bàn tay mình để trên bàn, không nói câu nào.
Đôi tay này mà cắt qua yết hầu một người có giống lúc cắt bạc không?
Nỗi u uất trong mắt Ngô Hý Ngôn đậm hơn: “Tại hạ không phải cố tình làm giá, tin tức của tại hạ có được do mấy trăm thủ hạ cung cấp, ít nhất tại hạ cũng phải có gì đó cho họ chứ”.
Thủy Tri Hàn vẫn nhìn tay mình chằm chằm: “Có ai không tin lời Quân Vô Hý Ngôn? Mỗ tin tưởng tin tức của tiên sinh đáng giá năm mươi lạng hoàng kim, nhưng có thể đợi mỗ sai thủ hạ về phủ Tướng Quân lấy đến chăng?”
Ngô Hý Ngôn thở dài: “Đáng hận nhất là chiêu bài Quân Vô Hý Ngôn của tại hạ, bằng không tại hạ cứ trả lời Tổng quản rằng không biết, ắt không đến nỗi khó xử như bây giờ”.
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Tiên sinh có điểm nào khó xử?”
Ngô Hý Ngôn đáp: “Chỉ cần Tổng quản đáp ứng tại hạ một việc, tin tức này sẽ miễn phí”.
Ánh mắt Thủy Tri Hàn rời khỏi đôi tay: “Tiên sinh nói đi”.
“Chỉ cần Tổng quản bảo đảm trước khi giải quyết xong việc của Ngũ Kiếm liên minh, đừng đến hỏi tại hạ bất cứ việc gì”.
Thủy Tri Hàn cười vang: “Được, trong vòng một tháng, Thủy mỗ sẽ không đến tìm tiên sinh, cũng không hỏi bất cứ câu nào”.
Ngô Hý Ngôn lẩm nhẩm: “Phải cho tại hạ nửa năm”.
Tinh quang trong mắt Thủy Tri Hàn lại lóe lên: “Ngô tiên sinh cho rằng trong một tháng, phủ Tướng Quân không giải quyết xong xuôi chăng?”
Ngô Hý Ngôn lặng thinh, coi như thừa nhận.
Thủy Tri Hàn ngẫm nghĩ hồi lâu: “Mỗ đồng ý”.
Ngô Hý Ngôn tinh thần đại chấn, nghiêm mặt đáp: “Lôi Nộ tính cách quả cảm, thích mạo hiểm ra tay, năm xưa y một mình ám sát Mỵ Vân giáo tả sứ Đặng Cung mà thành danh. Y hóa tranh thành Mỵ Vân giáo đồ trà trộn vào Pháp Giáo đại hội, một đòn hạ sát Đặng Cung rồi nhân lúc hỗn loạn đào tẩu, đủ thấy gan dạ phi thường. Y thích nhất ba thứ, một là danh kiếm tên Nộ, binh khí bất ly thân của y; hai là mỹ nhân, ái thê Yên Hồng là con gái Giang Nam Đại Nho Chúc Trọng Ninh, năm đó y phải thu thập mười một bức tự họa của danh nhân mới khiến Chúc Trọng Ninh động lòng, gả cô con gái bảo bối cho. Thứ ba, y cực kỳ trọng thanh danh ...”
Thủy Tri Hàn bật cười: “Danh kiếm và mỹ nhân của Lôi Nộ, mỗ từng nghe đến, nhưng còn việc trọng thanh danh này đúng là lần đầu biết tới”.
Ngô Hý Ngôn gật đầu: “Lôi Nộ ngày còn bé đã được coi là người tiếp nhận vị trí chủ nhân Phích Lịch đường, thiên tư tuyệt cao nên mới tập được bảy pho kiếm pháp của các phái Giang Nam. Nhưng vì y kiêu cuồng từ nhỏ nên cực trọng thanh danh, lúc lập Ngũ Kiếm liên minh sợ người ta điều tiếng mình chỉ biết dựa hơi uy thế nên tuyên bố không quan hệ với Phích Lịch đường. Người ngoài nói rằng y cao ngạo nhưng không hiểu nguồn gốc do y quá để tâm đến thanh danh, thành ra thứ y yêu thích nhất không phải danh kiếm cùng mỹ nhân, mà là thanh danh”.
Thủy Tri Hàn ngầm tán đồng, nhận ra rằng trả giá cao cũng không hề uổng phí.
Ngô Hý Ngôn thấy Thủy Tri Hàn tỏ vẻ hài lòng, lại châm đầy một chén rượu: “Tại hạ biết điều Tổng quản muốn hỏi không phải về con người Lôi Nộ hay Ngũ Kiếm liên minh có thực lực gì mà là y sẽ đối diện thế nào với Tướng Quân lệnh?”
Thủy Tri Hàn chầm chậm gật đầu.
Ngô Hý Ngôn tiếp lời: “Lôi Nộ tuy thống lĩnh Ngũ đại kiếm phái, thủ hạ không thiếu người có năng lực, nhưng ngũ phái đều có tôn trưởng riêng, bình thường ai động đến uy danh tất sẽ hợp lực đối ngoại, không tính thiệt hơn. Nhưng chạm phải đại địch như phủ Tướng Quân, chỉ e phái nào cũng lảng tránh trước khi đại nạn giáng xuống. Bất quá Lôi Nộ tính tình cứng cỏi, lúc mới xuất đạo còn dựa vào uy danh Phích Lịch đường, sau đó tự gây dựng thế lực mạnh dần, chưa từng gặp khó khăn gì, lại thêm y quá trọng thanh danh, dù lần này thân hữu ly tán cũng sẽ tập hợp sức tàn đấu một phen với tướng quân. Đường đường Ngũ Kiếm liên minh, nếu quyết tử chiến đấu, e rằng không dễ ứng phó...”
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Châu chấu đá xe, có gì đáng kể”.
Ngô Hý Ngôn than: “Lôi Nộ liên hợp ngũ phái vốn không có gì sai trái, chỉ tại y quá khoa trương, không biết thu liễm bớt lại nên mới bị Minh tướng quân dè chừng. Kỳ thật Ngũ Kiếm liên minh tuy mạnh nhưng còn lâu mới sánh được với thực lực của tướng quân, ngài khai đao với liên minh chắc chỉ để thử phản ứng của người trong giang hồ, thành ra mới để cho Lôi Nộ thời hạn một tháng, chờ những người không phục tướng quân cùng đến rồi quét sạch một mẻ. Có điều Lôi Nộ cũng là kẻ hiểu tình thế, biết không địch nổi mà vẫn giữ chặt Ngũ Kiếm sơn trang, chắc y có ẩn tình riêng...”
Sát cơ hiện lên trong mắt Thủy Tri Hàn: “Tiên sinh nói quá nhiều rồi”.
Ngô Hý Ngôn cụp mắt: “Tại hạ tuy già nhưng mắt còn sáng, Tổng quản đã đáp ứng điều kiện, tại hạ phải tiết lộ tất cả, tránh tự hủy chiêu bài của mình”.
Thủy Tri Hàn uống cạn chén rượu: “Lời tiên sinh để tại hạ nghe thấy không sao nhưng để tướng quân nghe được, e rằng tiên sinh không ra khỏi kinh sư nổi”.
Ngô Hý Ngôn thấp giọng: “Vì thế tại hạ mới giao dịch với Tổng quản, tối nay tại hạ sẽ rời kinh”.
Thủy Tri Hàn cười vang: “Thủy mỗ đã đồng ý trong vòng một tháng giải quyết việc của Ngũ Kiếm liên minh sẽ không hỏi đến tiên sinh. Ngô tiên sinh vội làm gì?”
Ngô Hý Ngôn chen lời: “Thủy tổng quản đừng quên rằng chúng ta đồng ý là nửa năm...”
Sau rốt Thủy Tri Hàn cũng động dung: “Thời thế tạo anh hùng, Lôi Nộ tuy võ công bất phàm nhưng nếu đến nơi tàng long ngọa hổ như kinh sư chắc cũng không làm nên trò trống gì. Chẳng qua y ở Giang Nam xa xôi, thế lực của tướng quân không với tới mới có được địa vị hôm nay. Vì sao tiên sinh chắc rằng trong một tháng, tại hạ không thể san bằng Ngũ Kiếm sơn trang?”
Ngô Hý Ngôn đáp: “Tuy Giang Nam Phích Lịch đường tuyên bố không quan tâm đến việc của Lôi Nộ nhưng phần lớn người giang hồ đều xu quyền phụ thế, lúc Ngũ Kiếm liên minh như mặt trời chính ngọ, đương nhiên họ hùa theo, giờ họ không té nước theo mưa, chèn ép Lôi Nộ đã tốt lắm rồi. Nhưng tại hạ biết có một người tuyệt đối sẽ nhúng tay vào việc này, hiện tại chắc gã đang ở trong Ngũ Kiếm sơn trang”.
Thủy Tri Hàn nhướng mày: “Ai?”
“Có việc cần bẩm báo Tổng quản”. Một kiếm khách vội vàng chạy lên tửu lâu, chính thị Đơn Kiếm Chỉ Thiên Tô Phỉ Kỳ của phủ Tướng Quân.
“Việc gì?” Thủy Tri Hàn thấy Tô Phỉ Kỳ không kịp thi lễ, biết ngay có đại sự xảy ra.
“Người câm đưa tấm Tướng Quân lệnh thứ hai chết tại Giang Nam, thi thể được người ta mang về. Tướng Quân lệnh không rõ ở đâu”.
“À, có điều tra ra ai hạ thủ không?”
“Người truyền lệnh toàn thân không có vết thương, từ trán xuống bụng có một vết đỏ mờ mờ. Theo lời Quỷ tiên sinh là do đao khí gây ra”.
Quỷ tiên sinh mà Tô Phỉ Kỳ nhắc tới không ai khác Quỷ Thất Kinh, hai mươi tư đệ tử thuộc quyền quản hạt của y lấy tên theo Nhị thập tứ tinh tú, được người giang hồ xưng tụng Tinh Tinh Mạn Thiên, ai cũng là siêu cấp sát thủ giết người trong vô hình.
Quỷ Thất Kinh được công nhận là sát thủ mạnh nhất giang hồ trong vòng mấy trăm năm nay. Người đời coi y là sát thủ chi vương của hắc đạo, sánh ngang bạch đạo sát thủ Trùng Đại Sư, đồng thời cũng là nhân vật chỉ xếp sau Thủy Tri Hàn trong phủ Tướng Quân.
Thủy Tri Hàn trầm ngâm: “Quỷ tiên sinh còn nói gì nữa chăng?”
Tô Phỉ Kỳ đáp: “Quỷ tiên sinh nói rằng, ngài nhận ra thanh đao đó”.
Thủy Tri Hàn rúng động toàn thân, nhìn sang Ngô Hý Ngôn: “Mỗ cũng biết người đó là ai”.
3. Quân lệnh
Lôi Nộ lặng lẽ cầm Tướng Quân lệnh vừa cắm xuống mặt bàn lên, lệnh bài chỉ rộng chừng hai thốn vuông, trọng lượng cực nặng, màu đen nhánh như mực, sờ vào vừa trơn vừa rít, đồng thời truyền lên hàn khí lạnh ngắt.
Mười ngày trước tiếp được Tướng Quân lệnh, y từng dùng cây Nộ Kiếm sắc lẹm chém vào nhưng lệnh bài không mảy may tổn hại, hình như tinh chế từ huyền thiết ở Quan Ngoại. Chất liệu không tan chảy trong nhiệt độ này, Minh tướng quân dùng cách nào mà đúc thành được nhỉ?
Trên giang hồ, người có năng lực không thiếu, có thể dùng huyền thiết luyện chế thành vật phẩm tuy hiếm nhưng không đến nỗi kỳ lạ. Có điều khi tấm lệnh bài nhỏ xíu này được khắc thêm một chữ “Minh”, nó không còn là một tấm lệnh bài đơn thuần nữa, mà trở thành chiến thư của thiên hạ đệ nhất cao thủ Minh tướng quân.
Minh Tôn Việt là đại tướng quân của triều đình, uy thế chấn động bốn cõi, trong năm năm bình định xong Bắc Cương, bức bách các tộc Quan Ngoại xưng thần với Trung Thổ. Đối ngoại xong xuôi, ông ta lại chuyển sang dẹp yên nội vụ, chĩa mùi dùi vào các môn các phái trên giang hồ.
Mấy năm nay, ông ta dùng cả ân lẫn uy, khiến vô số môn phái quy thuận.
Trong Hắc Đạo Lục Đại Tôn Sư, Thủy Tri Hàn là Đại tổng quản phủ Tướng Quân, Xuyên Đông Phán Quan chủ động cầu hòa với ông ta, Giang Tây Quỷ thành Lịch Khinh Sinh sai cả đệ tử đến đầu nhập vào phủ Tướng Quân. Chỉ có Nam Phong Phong Niệm Chung cùng Bắc Tuyết Tuyết Phân Phi vẫn bình chân.
Các môn phái hắc đạo cũng thi nhau thần phục, hiện tại thế lực duy nhất có thể đấu với Minh tướng quân là giang hồ đệ nhất đại bang Liệt Không bang, dưới quyền lãnh đạo của Bang chủ Hạ Thiên Lôi phân chia ảnh hưởng với thế lực hắc đạo của tướng quân. Ngoài ra còn có Trùng Đại Sư được coi là bạch đạo đệ nhất sát thủ, cùng tứ đại đệ tử Tần Linh Vận, Tề Sinh Kiếp, Thư Tầm Ngọc, Mặc Lưu Bạch dùng phương thức ám sát đối kháng với Minh Tôn Việt.
Những thế lực nhỏ như Diễm Thiên nhai ở Vân Nam, Vô Song thành ở Quan Trung, Hải Nam Lạc Hoa cung... cũng chỉ dựa vào địa thế xa xôi, thế lực của ông ta không vươn tới mà giữ mình. Những danh môn đại phái Thiếu Lâm, Võ Đang buộc phải trơ mắt nhìn ông ta tung hoành, không dám phản ứng.
Tám năm trước, tấm Tướng Quân lệnh thứ nhất xuất hiện tại phái Trường Bạch.
Lúc đó Ngự tứ Phiên vương Phong Ải Hầu quyết tâm phát triển tại Quan Ngoại, liên hợp thế lực các tộc Tái ngoại bị đàn áp lâu nay, giương ngọn cờ thay trời hành đạo, trừ diệt gian thần mà bái vương lập quốc, chĩa mũi dùi vào Minh tướng quân dưới một người trên vạn người trong triều...
Phái chủ phái Trường Bạch Hứa Liệt dẫn năm trăm đệ tử, công khai tỏ ý ủng hộ Phong Ải Hầu lập quốc, trở thành lực lượng có sức hiệu triệu lớn nhất ở phía bắc Quan Ngoại - trừ Bắc Tuyết Tuyết Phân Phi...
Phong Ải Hầu là hoàng tộc Phiên vương, Minh tướng quân không phụng chiếu nên không dám công nhiên coi là địch nhân, nhưng với phái Trường Bạch thì không.
Vì thế, đạo Tướng Quân lệnh đầu tiên được đưa đến tay Hứa Liệt, lệnh cho lão trong mười ngày phải dâng hết binh khí của phái Trường Bạch, đưa con trai đến làm con tin, coi như trừng phạt nhẹ.
Hứa Liệt tiếp lệnh liền cười vang, bạt kiếm chém người truyền lệnh, treo lệnh bài ngoài cửa sảnh, lệnh cho thủ hạ mỗi lần vào sảnh phải nhổ nước bọt.
Mười ngày sau, Minh tướng quân đích thân dẫn năm trăm tinh binh cùng các cao thủ dưới trướng thần không hay quỷ không biết tiến vào phái Trường Bạch.
Sau bảy chiêu, Hứa Liệt mất mạng trong tay ông ta, toàn bộ năm trăm người của phái Trường Bạch bị quét sạch, từ đó phái này trừ danh khỏi giang hồ!
Mười lăm ngày sau, Phong Ải Hầu mất mạng một cách thần bí trong hầu phủ, toàn thân không có vết thương, duy nhất gần my tâm có điểm đỏ rực.
Giang hồ đồn rằng đó là kiệt tác của đệ nhất sát thủ Quỷ Thất Kinh, thủ hạ của tướng quân.
Trong khi đó Đại tổng quản Thủy Tri Hàn, một trong Hắc Đạo Lục Đại Tôn Sư ở lại trấn thủ kinh sư, quả thật thực lực của Minh tướng quân hùng hậu cực độ.
Năm năm trước, Lộ Thiên Viễn trấn thủ Sơn Hải quan dấy binh tự lập, ngày hôm sau Tướng Quân lệnh xuất hiện trước mặt, lệnh cho hắn về kinh tạ tội.
Lộ Thiên Viễn bỏ qua, điều binh khiển tướng phong tỏa Sơn Hải quan.
Mười ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ hai xuất hiện một cách thần bí trong phòng ái thiếp của hắn, người thiếp yêu này thảm tử ngay trên giường.
Lộ Thiên Viễn quyết chí báo thù cho ái thiếp, giới nghiêm toàn thành truy tìm hung thủ.
Hai mươi ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ ba xuất hiện tại soái sảnh của Lộ Thiên Viễn, hắn cùng mười hai tướng lĩnh thủ hạ đầu một nơi thân một nẻo.
Bốn năm trước, ngự sử Thái Diệu Tông dâng tấu đàn hặc Minh tướng quân, Hoàng thượng nổi giận lôi đình, bãi quan Thái ngự sử. Trước khi ông lên đường, Minh tướng quân sai người đưa một tấm Tướng Quân lệnh đến.
Lần này giang hồ bạch đạo buộc phải xuất động, tứ đại môn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Hoa Sơn đều phái cao thủ đến bảo vệ Thái ngự sử. Tổng tiêu đầu thiên hạ đệ nhất tiêu cục Duy Ngã tiêu cục Lâm Độ tự thân đi cùng, ngoài ra còn nhiều cao thủ giang hồ ngầm bảo vệ.
Năm ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ hai xuất hiện.
Thiếu Lâm Tâm Giác đại sư mất tay trái, Võ Đang Hoa Dương chân nhân mất tay phải.
Mười ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ ba xuất hiện.
Nga My Liệt Không sư thái thổ bảy ngụm máu, Hoa Sơn Đỗ trưởng lão kiếm gãy trọng thương, Lâm Độ bị đầu độc mù hai mắt, hai mươi sáu cao thủ giang hồ tử thương.
Thái ngự sử nứt toác lồng ngực, gương mặt bị hủy, không ai nhận ra thi thể băng lãnh từng là bậc ngự sử đường đường!...
Tám năm nay, Tướng Quân lệnh xuất hiện tổng cộng năm lần, số người chết giảm dần nhưng lần sau lại hung hiểm hơn lần trước.
Từ đó không ai dám công nhiên kháng cự Tướng Quân lệnh.
Quân lệnh sơ chí,
Mạc cảm bất tòng;
Quân lệnh tái chí,
Thùy dữ tranh phong;
Quân lệnh tam chí,
Huyết lưu thành hà.
4. Toái Không
Lôi Nộ chìm vào trầm tư, lặng lẽ nhìn tấm Tướng Quân lệnh mỗi lần xuất hiện sẽ dấy lên mưa máu gió tanh trên giang hồ.
Lần này, kết cục của y có giống với những người nhận được lệnh bài trước đây?
Y thoáng do dự, thực lực hiện tại của y đấu với Minh tướng quân khác nào lấy trứng chọi đá.
Người ta sống trên đời, có việc không nên làm, cũng có việc phải làm.
Nhưng, nếu mất đi tính mạng, còn làm được gì?
Y vẫn ngồi thẳng thớm, quyết không thể mất đi tôn nghiêm trước mặt Bát Đại Hộ Pháp của Ngũ Kiếm liên minh, họ liều mạng bảo vệ y, y quyết không thể để họ thất vọng.
Y càng không thể để ái thê Yên Hồng thấy được khía cạnh mềm yếu của mình, nàng yêu y đến vậy, y phải giữ lấy khí khái anh hùng trong lòng nàng.
Hà huống, hiện tại còn một người nữa.
Y nhìn sang thanh niên đưa Tướng Quân lệnh tới với gương mặt thờ ơ.
Thanh niên không nói gì, bạt đao, nhích vai, vung tay.
Chém xuống.
Tất thảy những người trong Phong Lẫm các đều nhìn rõ động tác của gã hết sức tự nhiên, thoải mái như cao sơn lưu thủy. Kỳ quái là từ lúc y xuất đao đến khi hoàn thành nhát chém, không ai có cảm giác bị uy hiếp, cơ hồ đang xem một màn đao vũ, một trường biểu diễn hoàn mỹ vô khuyết, đao quang lạnh lùng nhưng không mang địch ý bung nở từ hư vô, dừng lại trên không rồi tan biến ngay trước mắt.
Một cỗ đao khí bá đạo, phảng phất mang theo phong vị thoáng đãng tràn khắp Phong Lẫm các, trong đao ý phân minh hàm chứa tiết tấu của võ đạo, khiến người khác gõ nhịp tán thưởng, huyết mạch căng phồng, sóng lòng trào lên, tâm hồn xáo động...
Lúc ào ạt như tuấn mã tung vó mang lại xung lực rung chuyển lòng người, lúc nhẹ nhàng lại như làn gió mát mơn qua mặt người thư thái đi dạo. Hai loại cảm giác mẫu thuẫn hợp lại khiến ai nấy nghĩ rằng không phải cây đao chém tới mà đó là cầu vồng rực rỡ tan thành bảy sắc rồi ngưng tụ lại, xa tận chân trời nhưng đưa tay là chạm vào được.
Trong mắt Chúc Yên Hồng, đạo đao quang đó như cây bút vẽ mày sắp phớt qua mặt, mang theo lời thơ của tình nhân.
Trong mắt Bát Đại Hộ Pháp, đạo đao quang lại như như lá cờ rung phần phật trong gió lạnh, tràn lên ý chí chiến đấu vô tận.
Trong mắt Lôi Nộ, đó lại là một dạng “không” nối liền kiếp trước với kiếp này, đao khí thu lại nhưng đao ý vô cùng!
Y ngây người nhìn đạo đao quang xưa này chỉ nghe nói tới chứ chưa được chứng kiến, buột miệng: “Toái - - Không - - Đao!”
Thanh niên mỉm cười, nụ cười đầy mỏi mệt: “Nhát đao này là quà ra mắt Minh chủ”.
Tướng Quân lệnh cứng rắn vô cùng đặt trên mặt bàn trước mặt Lôi Nộ tách ra, hóa thành hai nửa!
5. Đối chọi
“Diệp Phong là người thế nào?”
Ngô Hý Ngôn trầm ngâm hồi lâu rồi lắc đầu.
Thủy Tri Hàn kinh ngạc hỏi: “Có cả việc Ngô tiên sinh không biết ư?”
Ngô Hý Ngôn thở dài: “Tại hạ không hẳn không biết, mà là không nói rõ ràng được”.
Thủy Tri Hàn trầm tư.
Ngô Hý Ngôn lại thở dài: “Cũng như bảo tại hạ phải nói rằng Tổng quản là người thế nào, tại hạ cũng không nói rõ được”.
Thủy Tri Hàn lặng thinh.
Ngô Hý Ngôn thở dài lần thứ ba: “Tại hạ không trả lời rõ được vì những lời đồn về Toái Không Đao Diệp Phong quá nhiều, đến mức không phân biệt nổi. Có người nói gã là quan môn đệ tử [3] của Bắc Tuyết, có người nói gã là con côi của Phong Ải Hầu, lại có người cho rằng gã là cô nhi lớn lên trong nơi hoang dã, cũng có người nhận định gã là thiên tài võ học được Tứ Đại Gia Tộc thần bí Điểm Tình các, Phiên Tiên lâu, Ôn Nhu hương, Anh Hùng trủng hợp lực đào tạo. Bất kể lời đồn thế nào, có hai điểm chắc chắn xác định được, một là gã võ công cực cao, tuy không rõ học từ đâu nhưng đủ đấu với bất kỳ vị cao thủ cấp tôn sư nào; thứ hai, gã lúc chính lúc tà, độc lai độc vãng, có điều chỉ cần là việc đối kháng với tướng quân, gã chưa từng bỏ lỡ bao giờ...”
Thủy Tri Hàn hỏi: “Trên giang hồ nhận xét về gã thế nào? Ngô tiên sinh cứ nói thẳng thắn”.
Ngô Hý Ngôn ngẫm nghĩ hồi lâu: “Toái Không Đao được xưng là ‘đao ý hành không, đao khí hoành không, đao phong lược không, đao quang toái không’, dùng đao khí vô chất đả thương địch thủ hữu chất, trong vòng trăm năm nay gã là người đầu tiên luyện thành hư không đao ý, đao pháp cao siêu gần sánh được với Đao Vương Tần Không, thật sự là kình địch của Minh tướng quân”. [4]
Thủy Tri Hàn trầm giọng: “Vì sao gã luôn đối đầu với tướng quân?”
Ngô Hý Ngôn đáp: “Về chuyện này trên giang hồ cũng có nhiều lời đồn, nhưng không lời đồn nào thuyết phục. Diệp Phong đao pháp tuy cao nhưng với sức mình gã tuyệt đối không địch nổi số đông cao thủ dưới trướng tướng quân. Xưa nay gã độc lai độc vãng, tung tích quỷ bí, để đạt mục đích bất kể thủ đoạn, hoặc ẩn trong bóng tối ám sát, hoặc ra mặt quyết đấu, hoặc tung ra lôi đình nhất kích, xuất thủ xong liền lập tức đi xa, có địch nhân như gã quả thật ai cũng phải đau đầu”.
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Tướng quân chỉ coi gã là thằng hề đang diễn trò, Thủy mỗ chống mắt lên xem gã múa may được đến bao giờ?”
Ngô Hý Ngôn cười hăng hắc: “Dù tướng quân không coi Diệp Phong là đại địch nhưng đúng lúc thực lực của ngài lên đến đỉnh cao, gã xuất hiện khác nào một vết thương trí mệnh. Người giang hồ đều thoái lui ba bước trước tướng quân, duy có Toái Không Đao không cần biết đến sống chết, dốc sức một mình chống lại, cổ vũ sĩ khí cho địch nhân của ngài. Nếu gã đứng lên hô hào, chỉ e sẽ tập kết được không ý kẻ chống đối, tất khiến tướng quân đau đầu. Không ít người trên giang hồ coi gã là biểu tượng chống lại tướng quân, đương nhiên gã là mối lo trong lòng tướng quân, cũng là kình địch của ngài”.
Thủy Tri Hàn bật cười: “Các kình địch của tướng quân, Ngụy công tử, Ám Khí Vương, Phong Ải Hầu đều xong đời, Trùng Đại Sư ẩn mình, Nam Phong, Bắc Tuyết, Hạ Thiên Lôi chẳng qua đang lay lắt chống cự, sớm muộn gì cũng chết trong tay tướng quân”.
Ngô Hý Ngôn lại cạn một chén, sắc mặt có vẻ ngà ngà, lẩm bẩm: “Đời người trăm năm, chớp mắt là qua, sau cùng đều là một nắm đất, có gì khác nhau đâu...”
Mắt Thủy Tri Hàn hiện lên sát cơ, hừ lạnh: “Lần này, Thủy mỗ sẽ khiến trên giang hồ không còn nhân vật như Toái Không Đao”.
Tâm niệm Ngô Hý Ngôn xoay chuyển, thần tình hơi biến đổi, buột miệng thốt: “Tháng trước nghe nói Toái Không Đao Diệp Phong xuất hiện tại Giang Nam, Tướng Quân lệnh liền được truyền đến Ngũ Kiếm liên minh ở Tô Châu...”
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Ngô tiên sinh uống hơi nhiều rồi, nên biết giữ mồm giữ miệng một chút”.
Ngô Hý Ngôn nhìn gương mặt lạnh lùng của y, trong lòng dâng lên một cỗ hàn ý, há miệng nửa chừng nhưng không thốt thành tiếng.
Lẽ nào lần này Tướng Quân lệnh đột nhiên truyền đến Ngũ Kiếm liên minh chỉ là một nước cờ để đối phó với Toái Không Đao?
6. Cầu Tư
Chúc Yên Hồng đương nhiên là nữ nhân mỹ lệ, nhưng ai thấy nàng lần đầu đều không cảm giác thấy sắc đẹp mà là một loại “nhu”.
Vừa trầm tĩnh như nước, lại như khẽ động tới sẽ khiến mặt nước lăn tăn, gợn lên những vòng sóng.
Nàng cũng như mớ tóc dài tha thướt tùy ý buông xuống, tùy theo từng đường cong của thân thể mà uốn lượn triền miên, tô điểm gấp bội cho thân thể yêu kiều. Nữ tử như nàng mang lại cho người khác cảm giác yểu điệu hơn là kiều diễm.
Nhưng bàn tay xinh đẹp gợi cho người khác ý nghĩ phải nắm lấy ấy đang vuốt ve một cây kiếm.
Một cây kiếm không hề hợp với nàng nhưng lại khiến ai cũng thấy rằng nàng đương nhiên phải có.
Thân là Minh chủ phu nhân của Ngũ Kiếm liên minh, lẽ nào không có kiếm?
Cây kiếm này do trượng phu tặng nàng vào dịp sinh nhật hai mươi lăm tuổi, chỉ dài hơn năm tấc, trang trí tinh xảo, cực kỳ sắc bén. Lưỡi xanh biếc, tua vàng nhạt, cây kiếm giống một tác phẩm nghệ thuật hơn là lợi khí sát nhân.
“Thanh kiếm này ta lấy được trong một ngôi cổ mộ từ ba tháng trước, giờ tặng cho nàng để phòng thân”. Lúc đó, Lôi Nộ nói vậy.
Y có hiểu tâm tư nàng không? Lẽ nào y không biết nàng là nữ tử căm ghét chém chém giết giết? Lẽ nào y không biết nàng chỉ là một cô bé có thể khóc hay cười vì một cánh hoa rơi, một lá cỏ như tơ, một món đồ chơi khả ái hay một con vật nhỏ xíu?
Một lưỡi kiếm nho nhỏ thế này, để cắt móng tay hay tỉa hoa cỏ chẳng phải tốt lắm ru?
Đương nhiên nàng không nói ra ý nghĩ trong lòng, chỉ ngắm nghía cây tiểu kiếm như đang ngắm một cây kim thêu.
Thân kiếm khắc hai chữ triện mang ý vị cổ kính - - “Cầu Tư”.
Lòng nàng khẽ ngâm khúc cổ nhạc khuyết danh “Hán Quảng” trong Kinh Thi:
Nam hữu kiều mộc,
bất khả hưu tức;
Hán hữu du nữ,
bất khả cầu tư... [5]
Nàng thích cây kiếm này, thích ý nghĩa đau mà không thương, oán mà không hận, nỗi niềm quyến luyến và khát vọng trong trắng chỉ may mắn gặp được chứ không thể cưỡng cầu.
Giờ nàng đã hai mươi bảy, thời gian hai năm đủ để thay đổi rất nhiều thứ chăng?
“Mấy hôm này, nàng lúc nào cũng phải mang cây kiếm này theo, ta không muốn nàng sa vào tay địch nhân”. Mười ngày trước, chồng nàng đã nói như thế.
Y không biết rằng từ khi y tặng nàng thanh Cầu Tư kiếm này, chưa bao giờ nàng rời nó.
Bao năm rồi, lúc y nhớ đến cây kiếm cũng chỉ muốn nhắc nhở nàng: “Ta không muốn nàng sa vào tay địch nhân...”
Lúc đó nàng mới biết, Cầu Tư không phải để cự địch, cũng không để tỉa hoa cỏ mà khi bị bắt, nó dùng để tự tận trước khi bị làm nhục.
Nàng là Minh chủ phu nhân, là vợ Lôi Nộ. Nàng không thể nhẫn nhục sống trộm, không thể để người khác ô nhục, bởi thứ bị hủy đi không chỉ là trinh tiết của nàng, còn là tôn nghiêm của y.
Đúng vậy, trong tình huống này, có phải nàng làm gì cũng vì tôn nghiêm của y hơn là bổn phận một thê tử?
Nàng không biết, cũng không muốn biết.
Nàng chỉ biết “Toái Không Đao” Diệp Phong thường được người ta nhắc tới đã đến rồi, hơn nữa lại muốn cùng chồng nàng sánh vai chống lại Tướng Quân lệnh của Minh tướng quân.
Người thanh niên có ánh mắt đượm buồm, mặt đượm man mác, khi cười giống như trẻ thơ này lại là “Toái Không Đao” Diệp Phong danh chấn giang hồ, gã giống một thần thoại hơn là một con người.
Nàng vốn không hảo cảm gì với cái tên này, đằng sau cái tên đó cũng chỉ là một kẻ giống chồng nàng hoặc thủ hạ của y: lúc nào cũng cười nói oang oang, rồi sẽ vừa đàm luận về nữ nhân vừa nhắc đến giang hồ, dùng ánh mắt cơ hồ xuyên qua y phục nhìn nàng, nói ra những lời thô thiển không cần biết đến cảm thụ của nàng, bàn đến chính sự tất gạt nàng ra, xưa nay chưa từng cho nàng tham dự. Dù là chồng nàng cũng chỉ che chắn trước mặt nàng khi đao chém tới, liều mạng giết địch rồi lại phóng túng trên mình nàng, cười nhạo khi nàng chôn hoa, bỡn cợt lúc nàng u oán...
Nhưng Diệp Phong đến rồi, câu đầu tiên gã nói là mười người phải cùng nhau kháng địch.
Hơn nữa trong mười người đó có cả nàng, cả nữ nhân nhỏ nhoi trói gà không chặt, chỉ biết đánh đàn, chơi cờ, ngâm thơ, trồng hoa...
Trong giây phút đó, nàng không còn cảm giác mình chỉ biết phụ thuộc vào nam nhân, không còn là vật mua vui riêng của ai.
Mà đột nhiên nàng trở thành bằng hữu, huynh đệ, chiến hữu, thậm chí là niềm vui của một người...
Tất cả chỉ vì gã đã tới, vì một câu nói của gã...
Lúc đó, gã còn chưa xuất đao, đã dễ dàng cắt đứt oán hờn suốt hơn hai mươi năm của nàng.
---------------------------------------------------------------------------
[1] Tạm dịch: Nước vô định, hoa rơi hết sẽ tương phùng, nhưng kiếp người cứ đằng đẵng trong ly biệt.
[2] Tạm dịch: Quân lệnh đến lần đầu, ai dám không tuân; quân lệnh lại tới, ai dám tranh phong; quân lệnh đến lần thứ ba, máu sẽ chảy thành sông.
[3] Đệ tử thu sau cùng
[4] Tạm dịch: Đao ý xuất hiện trên không, đao khí vạch ngang tầng không, đao phong lướt qua tầng không, đao quang chấn nát tầng không
[5] Bản dịch của Tạ Quang Phát:
Núi nam có cây trụi cao,
Mọi người chẳng thể tựa vào nghỉ ngơi.
Các cô sông Hán dạo chơi,
Đoan trang chẳng thể trao lời cầu mong...
Khả thị nhân sinh trường tại, biệt ly trung. [1]
1. Cây đinh
Đến tận hôm nay, Chúc Yên Hồng vẫn nhớ rõ ánh nắng hôm đó nhu hòa, trong trẻo biết bao, lại vô cùng ấm áp...
Lúc đó bầu không khí trong Phong Lẫm các nặng nề, gương mặt mỗi người ngập trong phẫn nộ vì bị khuất nhục, ai cũng tâm sự trùng trùng, tuyệt cảnh sắp giáng xuống mà họ đều bất lực.
Chỉ trừ nàng.
Nàng thả mình vào nắng tháng tám đầu thu, thư thả cảm thụ mùi vị của ánh nắng, ngắm nhìn từng tia nắng từ tốn lọt qua song cửa rải xuống sảnh đường. Nơi nào ánh nắng chiếu qua, nàng đều nhìn rõ từng hạt bụi li ti bị gió khẽ lay động, tản mác khắp phòng, phảng phất chúng cũng đang được gột rửa sạch bong.
Nàng cảm nhận được ánh nắng chậm rãi men theo ngạch cửa, lên chấn song, lên bàn ghế, xà nhà rồi lủi thủi bò lên khuôn mặt mỗi người.
Lúc đó nàng nghĩ ánh nắng cũng như khúc nhạc bình lặng.
Ánh nắng bình lặng đậu lên một gương mặt bình lặng. Ấy là chồng nàng - Minh chủ của Ngũ Kiếm liên minh Lôi Nộ.
Y không hề nổi giận, gương mặt vẫn trơ khấc như khúc gỗ, không biểu lộ tình cảm. Tay y vẫn ổn định, nổi đầy những đường gân xanh ngoằn ngoèo đan nhau, nắm chắc thanh Nộ Kiếm vẫn theo bên mình suốt mười tám năm nay.
“Chỉ có tám người các vị thôi sao?”
Y bình tĩnh hỏi, kỳ thật y cũng biết trước đáp án, lên tiếng hỏi chẳng qua không muốn tám người cuối cùng bám trụ lại hiểu rằng y vô năng trước tình thế này. Dùng lời lẽ cũng là một cách chuyển hướng áp lực cho tâm lý.
Hồng Hoang Kiếm Giang Chấp Phong vòng tay: “Bẩm Minh chủ, sau khi nhận được Tướng Quân lệnh, bọn thuộc hạ tuân theo ý ngài, mặc cho đệ tử bản minh tự quyết định có ở lại cùng tồn vong với sơn trang hay không. Hơn mười ngày nay, hôm nào cũng có người buông vũ khí rời khỏi Ngũ Kiếm sơn trang, hiện giờ cả Ngũ Kiếm liên minh chỉ còn lại tám người bọn thuộc hạ”. Hắn hơi dừng lại rồi quả quyết: “Bọn thuộc hạ quyết cùng tiến lui với Minh chủ, chống lại Tướng Quân lệnh”.
Lôi Nộ trầm tư, vỗ bàn đứng lên: “Từ hôm nay trở đi, trên giang hồ không còn cái gọi là Ngũ Kiếm liên minh, ta cũng không phải là Minh chủ gì hết, chúng ta là huynh đệ, huynh đệ đồng sinh cộng tử”.
Giọng y không lớn nhưng đượm hào khí, bàn tay cầm kiếm vẫn ổn định, không hề run rẩy.
Nhưng lúc đó nàng đứng sau lưng y, đang nhìn ánh nắng tràn khắp sảnh đường thong thả leo lên cổ y, trên cần cổ bạnh ra lộ rõ đường gân xanh có một giọt mồ hôi chậm rãi chảy xuống, rồi như một con trùng nhỏ xíu chui vào cổ áo.
“Tám người?” Nàng thầm nghĩ, đến giờ y vẫn không tính bản thân nàng vào số những người ở lại sao? Nàng là gì? Là nữ nhân của y, vật phụ thuộc vào y, hoặc là đồ chơi của y chăng? Nàng cười, nụ cười vô thanh. Nét cười từ trên gương mặt nàng, dần dần ngưng thành một đường cong yêu kiều, dấy lên một vừng hồng trên gò má, tan chảy trong sảnh đường lạnh lẽo, hòa vào ánh nắng...
Lôi Nộ cảm ứng được nụ cười của nàng, ngoái lại nhìn với vẻ kỳ quái, lòng y thoáng ân hận xót xa.
Trong tình cảnh ai nấy chỉ lo bỏ trốn, vì cớ gì nàng vẫn không rời bỏ y? Vì nàng yêu y? Hay vì nàng không còn nơi nào để đi?
Y thầm lắc đầu, cố xua đi nỗi nghi ngờ vấn vít trong lòng.
Vô luận thế nào, nàng vẫn ở lại, không phải vì Ngũ Kiếm liên minh, chỉ vì y.
Thế, cũng đủ rồi.
“Minh chủ sai rồi, không phải tám người, là mười người”. Một giọng nói thong thả cất lên ngoài cửa.
“Choang”. Trừ Lôi Nộ và Chúc Yên Hồng, tám người trong sảnh đường đồng thời tuốt kiếm, kiếm có tám thanh, tiếng bạt kiếm chỉ có một.
Lôi Nộ không bạt kiếm, tuy y kinh ngạc hơn cả tám thủ hạ nhưng y phải giữ bình tĩnh.
Là một thống lĩnh mà mất đi bình tĩnh, nỗi sợ hãi sẽ truyền nhiễm sang mỗi thủ hạ như ôn dịch, thậm chí cả ý chí chiến đấu của họ cũng tan biến luôn.
Trong tình huống Tướng Quân lệnh đưa tới đã mười ngày, nếu mất đi ý chí chiến đấu, chỉ còn lại một việc đợi y - chết!
Người này có thể vô thanh vô tức xuất hiện ngoài Phong Lẫm các, nhất là trong tình huống bão bùng sắp nổi, ai nấy đang giới bị, càng khiến người ta không tin nổi.
Trên đời quả thật có người thần không hay quỷ không biết xuất hiện trước mặt Minh chủ Ngũ Kiếm liên minh Lôi Nộ cùng Bát Đại Hộ Pháp chăng?
Có - vì, kẻ đó đã xuất hiện.
Thanh niên đó tùy tùy tiện tiện đứng ở cửa sảnh, tay cầm một tấm lệnh bài đen ngòm. Ánh nắng phảng phất mờ hẳn, bởi tấm lệnh bài đó là Tướng Quân lệnh người giang hồ nghe đến liền biến sắc.
Đó là tấm Tướng Quân lệnh thứ hai Ngũ Kiếm sơn trang nhận được.
Lần thứ nhất từ mười ngày trước. Người truyền lệnh là một người hầu câm của phủ Tướng Quân.
Người câm mặt mũi thản nhiên, chân phải bị tật nhưng không ai dám coi thường, trong vòng ba chiêu hắn đánh gục sáu đệ tử Ngũ Kiếm liên minh, ngạnh tiếp nửa chiêu với Cầm Thiên Kiếm Quan Ly Tinh, một trong Bát Đại Hộ Pháp, rồi mới đi vào Phong Lẫm các, cung cung kính kính đưa Tướng Quân lệnh cho Lôi Nộ.
Đi kèm có một phong thư viết đúng chín chữ: “Trong vòng một tháng, giải tán Ngũ Kiếm minh!”
Quân lệnh sơ chí,
Mạc cảm bất tòng;
Quân lệnh tái chí,
Thùy dữ tranh phong;
Quân lệnh tam chí,
Huyết lưu thành hà. [2]
Trong khoảnh khắc, Ngũ Kiếm liên minh hùng mạnh tan rã, chỉ còn lại mấy người trong sảnh đường - Minh chủ Lôi Nộ cùng Bát Đại Hộ Pháp.
Lần này Tướng Quân lệnh mang theo tai họa gì?
Tròng mắt Lôi Nộ rút lại, nhìn chằm chằm tấm Tướng Quân lệnh khiến y lâm vào cảnh thân hữu ly tán, hô hấp cũng cơ hồ ngưng trệ.
Tướng Quân lệnh thật ra có ma lực gì mà khiến bầu máu nóng của nam nhi giang hồ lạnh băng, can đảm tan chảy?
Nhưng thanh niên này lại tùy tùy tiện tiện nắm chặt Tướng Quân lệnh, phong thái tự nhiên, thoải mái như xa phu cầm roi, như một nữ tử bán hoa tươi cầm giỏ hoa...
Sắc mặt gã thản nhiên, không nanh ác tựa mãnh thú vồ mồi như người hầu câm, mà bình thản, không lo lắng đến vạn sự, cơ hồ không coi tấm lệnh bài chết chóc ra gì.
Tướng Quân lệnh trên tay gã không hề mang lại cảm giác uy hiếp, tuyệt không vì cầm lệnh bài mà gã toát ra sát khí, hình như gã và lệnh bài là hai vật chất cách tuyệt, lệnh là lệnh, gã là gã. Ai nấy có cảm giác gã chỉ vô tình cầm Tướng Quân lệnh tới đây.
Lôi Nộ cố gắng rời ánh mắt khỏi lệnh bài, lạnh lùng hỏi thanh niên: “Còn hai người nữa là ai?”
Thanh niên mỉm cười, như ánh nắng khắp phòng đột nhiên tụ tập lên gương mặt vốn lạnh lùng của gã, mở ra một tuyến sinh cơ. Gã quăng nhẹ, Tướng Quân lệnh như một sợi lông bay đến cắm xuống bàn Lôi Nộ đang ngồi, phát ra âm thanh chát chúa, hiển nhiên kình lực rất mạnh, nhưng mọi vật phẩm trên bàn không hề lay động.
“Còn có hai người, một là tôn phu nhân, người còn lại đương nhiên là tại hạ”.
Gã không cao lớn nhưng khiến người đối diện có cảm giác vững chãi, cũng như một cây đinh đóng cứng xuống đất, dù dùng sức mạnh thế nào cũng khó lòng lay đổ.
Cây đinh đó đóng chặt vào tim Chúc Yên Hồng, găm thật sâu, phảng phất khẽ chạm vào sẽ khiến xương cốt đau nhói.
Tất thảy vây thanh niên lại, nàng không dám động đậy, e sẽ khiến cây đinh găm sai chỗ, không thể cắm sâu vào thân thể nàng...
Trong một sát na, nàng chỉ biết rằng giọng nói đầy kiên định từ ngoài cửa truyền vào rất dễ nghe, so với giọng chồng nàng và thủ hạ thiếu đi ba phần sát khí, nhiều hơn ba phần thư thả, thêm cả một phần bình thản.
Mục quang bao người dồn hết lên tấm lệnh bài đen ngòm, nàng là người duy nhất nhìn mặt thanh niên.
Vì thế đến tận hôm nay, nàng vẫn nhớ rõ ánh nắng hôm đó nhu hòa, trong trẻo biết bao, lại vô cùng ấm áp...
Đến tận hôm nay nàng vẫn không hiểu rõ, ánh nắng hôm đó vốn đã chói lòa như vậy, hay vì gã xuất hiện khiến ánh nắng u sầu được gột sạch, có thêm một phần sinh cơ!?
2. Thanh danh
“Lôi Nộ là người thế nào?” Trung niên mặc áo sáng màu lên tửu lâu, đi thẳng đến chỗ lão nhân ngồi cạnh cửa sổ, khẽ hỏi.
Lão nhân bất động, nhìn rượu trong chén: “Câu này trị giá mười lạng bạc”.
“Cộp”. Một đĩnh bạc rơi mạnh xuống bàn, ly chén bày trên không hề lay động, cả rượu trong chén cũng không mảy may gợn lên.
Đĩnh bạc phải đến hai chục lạng.
Lão nhân hình như không nhìn thấy gì, lắc đầu: “Tại hạ đã nói là mười lạng, thêm một tiền không cần. Ngài có thấy Ngô Hý Ngôn nói ra rồi không giữ lời bao giờ chăng?”
Trung niên cười vang: “Hay cho Quân Vô Hý Ngôn, tiên sinh có thấy tại hạ lấy bạc ra rồi thu về bao giờ không?”
Lão nhân ngẩng lên nhìn: “Đại tổng quản quả có phong độ Đại tổng quản, không hiểu ngài đến hỏi hay tỏ uy phong?”
Trung niên còn ai khác Đại tổng quản phủ Tướng Quân ở kinh sư, cùng Minh tướng quân được tôn xưng là một trong Lục Đại Tôn Sư của giang hồ hắc đạo, dựa vào đôi Hàn Tẩm chưởng nổi danh thiên hạ: Thủy Tri Hàn.
Lão nhân nhếch nhác chính là Ngô Hý Ngôn được người giang hồ xưng tụng Quân Vô Hý Ngôn, tự xưng với giang hồ không gì không biết nhưng đề ra giá cả rõ ràng bán tin tức, xưa nay chưa từng cho ai nợ. Y du hý phong trần, lúc chính lúc tà, đối diện với Đại tổng quản phủ Tướng Quân ở kinh sư dưới vài người mà trên vạn người vẫn lạnh lùng trào phúng.
Mắt Thủy Tri Hàn lóe lên tinh quang, dùng ngón tay kẹp lấy đỉnh bạc, cười ha hả: “Ngô tiên sinh đừng nổi nóng, là Thủy mỗ không phải. Có điều cắt đĩnh bạc này, nếu nhiều hơn hay kém đi nửa tiền thì phải làm thế nào?”
Ngô Hý Ngôn uống cạn chén rượu: “Tổng quản khiêm tốn quá, tay ngài cắt vật gì mà thiếu đi nửa phân, từ đây tại hạ kiêng rượu”.
“Canh”, đĩnh bạc đứt đôi, chỉnh tề như được cắt bằng đao búa.
Ngô Hý Ngôn hân hoan nhét nửa đĩnh bạc vào ngực áo: “Vấn đề Thủy tổng quản vừa hỏi chỉ e không đơn giản như bề ngoài?”
Thủy Tri Hàn cười: “Tiên sinh cứ nói”.
Ngô Hý Ngôn lại thong thả châm đầy chén, mắt hiện lên một tia u uất: “Lôi Nộ xuất thân Giang Nam Phích Lịch đường, là con thứ sáu của Đường chủ Lôi Loạn Phong nhưng từ nhỏ đã nhận định võ công bản môn đa phần dựa vào uy lực của hỏa khí nên đầu thân vào các đại kiếm tông ở Giang Nam, trong chín năm tập thành bảy pho kiếm pháp, lại đi khắp nơi tìm danh sư, sau cùng kiếm pháp đại thành. Năm năm trước y liên hợp năm môn phái Lưu Ảnh, Truy Phong, Lộng Nguyệt, Bôn Lôi, Khiếu Điện thành lập Ngũ Kiếm liên minh, được tôn làm Minh chủ, thế lực hơn hẳn các phái ở Giang Nam, vì thế bị Minh tướng quân ôm chí nhất thống giang hồ nghi ngại. Mười hai ngày trước, Minh tướng quân công nhiên hạ Tướng Quân lệnh hạn định cho y trong vòng một tháng phải giải tán liên minh, bằng không... Thủy tổng quản chắc không cần tại hạ nói tiếp”.
Thủy Tri Hàn vỗ tay cười vang: “Câu trả lời này hình như không phải ý Thủy mỗ muốn hỏi, mỗ muốn biết Lôi Nộ là hạng người thế nào, tính cách ra sao, có sở thích gì đặc biệt...”
Ngô Hý Ngôn uống cạn một chén nữa: “Năm mươi lạng”.
Thủy Tri Hàn lấy làm lạ: “Sao giá đột nhiên lại cao hẳn lên?”
Ngô Hý Ngôn thở dài: “Là năm chục lạng hoàng kim”.
Thủy Tri Hàn nhìn hai bàn tay mình để trên bàn, không nói câu nào.
Đôi tay này mà cắt qua yết hầu một người có giống lúc cắt bạc không?
Nỗi u uất trong mắt Ngô Hý Ngôn đậm hơn: “Tại hạ không phải cố tình làm giá, tin tức của tại hạ có được do mấy trăm thủ hạ cung cấp, ít nhất tại hạ cũng phải có gì đó cho họ chứ”.
Thủy Tri Hàn vẫn nhìn tay mình chằm chằm: “Có ai không tin lời Quân Vô Hý Ngôn? Mỗ tin tưởng tin tức của tiên sinh đáng giá năm mươi lạng hoàng kim, nhưng có thể đợi mỗ sai thủ hạ về phủ Tướng Quân lấy đến chăng?”
Ngô Hý Ngôn thở dài: “Đáng hận nhất là chiêu bài Quân Vô Hý Ngôn của tại hạ, bằng không tại hạ cứ trả lời Tổng quản rằng không biết, ắt không đến nỗi khó xử như bây giờ”.
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Tiên sinh có điểm nào khó xử?”
Ngô Hý Ngôn đáp: “Chỉ cần Tổng quản đáp ứng tại hạ một việc, tin tức này sẽ miễn phí”.
Ánh mắt Thủy Tri Hàn rời khỏi đôi tay: “Tiên sinh nói đi”.
“Chỉ cần Tổng quản bảo đảm trước khi giải quyết xong việc của Ngũ Kiếm liên minh, đừng đến hỏi tại hạ bất cứ việc gì”.
Thủy Tri Hàn cười vang: “Được, trong vòng một tháng, Thủy mỗ sẽ không đến tìm tiên sinh, cũng không hỏi bất cứ câu nào”.
Ngô Hý Ngôn lẩm nhẩm: “Phải cho tại hạ nửa năm”.
Tinh quang trong mắt Thủy Tri Hàn lại lóe lên: “Ngô tiên sinh cho rằng trong một tháng, phủ Tướng Quân không giải quyết xong xuôi chăng?”
Ngô Hý Ngôn lặng thinh, coi như thừa nhận.
Thủy Tri Hàn ngẫm nghĩ hồi lâu: “Mỗ đồng ý”.
Ngô Hý Ngôn tinh thần đại chấn, nghiêm mặt đáp: “Lôi Nộ tính cách quả cảm, thích mạo hiểm ra tay, năm xưa y một mình ám sát Mỵ Vân giáo tả sứ Đặng Cung mà thành danh. Y hóa tranh thành Mỵ Vân giáo đồ trà trộn vào Pháp Giáo đại hội, một đòn hạ sát Đặng Cung rồi nhân lúc hỗn loạn đào tẩu, đủ thấy gan dạ phi thường. Y thích nhất ba thứ, một là danh kiếm tên Nộ, binh khí bất ly thân của y; hai là mỹ nhân, ái thê Yên Hồng là con gái Giang Nam Đại Nho Chúc Trọng Ninh, năm đó y phải thu thập mười một bức tự họa của danh nhân mới khiến Chúc Trọng Ninh động lòng, gả cô con gái bảo bối cho. Thứ ba, y cực kỳ trọng thanh danh ...”
Thủy Tri Hàn bật cười: “Danh kiếm và mỹ nhân của Lôi Nộ, mỗ từng nghe đến, nhưng còn việc trọng thanh danh này đúng là lần đầu biết tới”.
Ngô Hý Ngôn gật đầu: “Lôi Nộ ngày còn bé đã được coi là người tiếp nhận vị trí chủ nhân Phích Lịch đường, thiên tư tuyệt cao nên mới tập được bảy pho kiếm pháp của các phái Giang Nam. Nhưng vì y kiêu cuồng từ nhỏ nên cực trọng thanh danh, lúc lập Ngũ Kiếm liên minh sợ người ta điều tiếng mình chỉ biết dựa hơi uy thế nên tuyên bố không quan hệ với Phích Lịch đường. Người ngoài nói rằng y cao ngạo nhưng không hiểu nguồn gốc do y quá để tâm đến thanh danh, thành ra thứ y yêu thích nhất không phải danh kiếm cùng mỹ nhân, mà là thanh danh”.
Thủy Tri Hàn ngầm tán đồng, nhận ra rằng trả giá cao cũng không hề uổng phí.
Ngô Hý Ngôn thấy Thủy Tri Hàn tỏ vẻ hài lòng, lại châm đầy một chén rượu: “Tại hạ biết điều Tổng quản muốn hỏi không phải về con người Lôi Nộ hay Ngũ Kiếm liên minh có thực lực gì mà là y sẽ đối diện thế nào với Tướng Quân lệnh?”
Thủy Tri Hàn chầm chậm gật đầu.
Ngô Hý Ngôn tiếp lời: “Lôi Nộ tuy thống lĩnh Ngũ đại kiếm phái, thủ hạ không thiếu người có năng lực, nhưng ngũ phái đều có tôn trưởng riêng, bình thường ai động đến uy danh tất sẽ hợp lực đối ngoại, không tính thiệt hơn. Nhưng chạm phải đại địch như phủ Tướng Quân, chỉ e phái nào cũng lảng tránh trước khi đại nạn giáng xuống. Bất quá Lôi Nộ tính tình cứng cỏi, lúc mới xuất đạo còn dựa vào uy danh Phích Lịch đường, sau đó tự gây dựng thế lực mạnh dần, chưa từng gặp khó khăn gì, lại thêm y quá trọng thanh danh, dù lần này thân hữu ly tán cũng sẽ tập hợp sức tàn đấu một phen với tướng quân. Đường đường Ngũ Kiếm liên minh, nếu quyết tử chiến đấu, e rằng không dễ ứng phó...”
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Châu chấu đá xe, có gì đáng kể”.
Ngô Hý Ngôn than: “Lôi Nộ liên hợp ngũ phái vốn không có gì sai trái, chỉ tại y quá khoa trương, không biết thu liễm bớt lại nên mới bị Minh tướng quân dè chừng. Kỳ thật Ngũ Kiếm liên minh tuy mạnh nhưng còn lâu mới sánh được với thực lực của tướng quân, ngài khai đao với liên minh chắc chỉ để thử phản ứng của người trong giang hồ, thành ra mới để cho Lôi Nộ thời hạn một tháng, chờ những người không phục tướng quân cùng đến rồi quét sạch một mẻ. Có điều Lôi Nộ cũng là kẻ hiểu tình thế, biết không địch nổi mà vẫn giữ chặt Ngũ Kiếm sơn trang, chắc y có ẩn tình riêng...”
Sát cơ hiện lên trong mắt Thủy Tri Hàn: “Tiên sinh nói quá nhiều rồi”.
Ngô Hý Ngôn cụp mắt: “Tại hạ tuy già nhưng mắt còn sáng, Tổng quản đã đáp ứng điều kiện, tại hạ phải tiết lộ tất cả, tránh tự hủy chiêu bài của mình”.
Thủy Tri Hàn uống cạn chén rượu: “Lời tiên sinh để tại hạ nghe thấy không sao nhưng để tướng quân nghe được, e rằng tiên sinh không ra khỏi kinh sư nổi”.
Ngô Hý Ngôn thấp giọng: “Vì thế tại hạ mới giao dịch với Tổng quản, tối nay tại hạ sẽ rời kinh”.
Thủy Tri Hàn cười vang: “Thủy mỗ đã đồng ý trong vòng một tháng giải quyết việc của Ngũ Kiếm liên minh sẽ không hỏi đến tiên sinh. Ngô tiên sinh vội làm gì?”
Ngô Hý Ngôn chen lời: “Thủy tổng quản đừng quên rằng chúng ta đồng ý là nửa năm...”
Sau rốt Thủy Tri Hàn cũng động dung: “Thời thế tạo anh hùng, Lôi Nộ tuy võ công bất phàm nhưng nếu đến nơi tàng long ngọa hổ như kinh sư chắc cũng không làm nên trò trống gì. Chẳng qua y ở Giang Nam xa xôi, thế lực của tướng quân không với tới mới có được địa vị hôm nay. Vì sao tiên sinh chắc rằng trong một tháng, tại hạ không thể san bằng Ngũ Kiếm sơn trang?”
Ngô Hý Ngôn đáp: “Tuy Giang Nam Phích Lịch đường tuyên bố không quan tâm đến việc của Lôi Nộ nhưng phần lớn người giang hồ đều xu quyền phụ thế, lúc Ngũ Kiếm liên minh như mặt trời chính ngọ, đương nhiên họ hùa theo, giờ họ không té nước theo mưa, chèn ép Lôi Nộ đã tốt lắm rồi. Nhưng tại hạ biết có một người tuyệt đối sẽ nhúng tay vào việc này, hiện tại chắc gã đang ở trong Ngũ Kiếm sơn trang”.
Thủy Tri Hàn nhướng mày: “Ai?”
“Có việc cần bẩm báo Tổng quản”. Một kiếm khách vội vàng chạy lên tửu lâu, chính thị Đơn Kiếm Chỉ Thiên Tô Phỉ Kỳ của phủ Tướng Quân.
“Việc gì?” Thủy Tri Hàn thấy Tô Phỉ Kỳ không kịp thi lễ, biết ngay có đại sự xảy ra.
“Người câm đưa tấm Tướng Quân lệnh thứ hai chết tại Giang Nam, thi thể được người ta mang về. Tướng Quân lệnh không rõ ở đâu”.
“À, có điều tra ra ai hạ thủ không?”
“Người truyền lệnh toàn thân không có vết thương, từ trán xuống bụng có một vết đỏ mờ mờ. Theo lời Quỷ tiên sinh là do đao khí gây ra”.
Quỷ tiên sinh mà Tô Phỉ Kỳ nhắc tới không ai khác Quỷ Thất Kinh, hai mươi tư đệ tử thuộc quyền quản hạt của y lấy tên theo Nhị thập tứ tinh tú, được người giang hồ xưng tụng Tinh Tinh Mạn Thiên, ai cũng là siêu cấp sát thủ giết người trong vô hình.
Quỷ Thất Kinh được công nhận là sát thủ mạnh nhất giang hồ trong vòng mấy trăm năm nay. Người đời coi y là sát thủ chi vương của hắc đạo, sánh ngang bạch đạo sát thủ Trùng Đại Sư, đồng thời cũng là nhân vật chỉ xếp sau Thủy Tri Hàn trong phủ Tướng Quân.
Thủy Tri Hàn trầm ngâm: “Quỷ tiên sinh còn nói gì nữa chăng?”
Tô Phỉ Kỳ đáp: “Quỷ tiên sinh nói rằng, ngài nhận ra thanh đao đó”.
Thủy Tri Hàn rúng động toàn thân, nhìn sang Ngô Hý Ngôn: “Mỗ cũng biết người đó là ai”.
3. Quân lệnh
Lôi Nộ lặng lẽ cầm Tướng Quân lệnh vừa cắm xuống mặt bàn lên, lệnh bài chỉ rộng chừng hai thốn vuông, trọng lượng cực nặng, màu đen nhánh như mực, sờ vào vừa trơn vừa rít, đồng thời truyền lên hàn khí lạnh ngắt.
Mười ngày trước tiếp được Tướng Quân lệnh, y từng dùng cây Nộ Kiếm sắc lẹm chém vào nhưng lệnh bài không mảy may tổn hại, hình như tinh chế từ huyền thiết ở Quan Ngoại. Chất liệu không tan chảy trong nhiệt độ này, Minh tướng quân dùng cách nào mà đúc thành được nhỉ?
Trên giang hồ, người có năng lực không thiếu, có thể dùng huyền thiết luyện chế thành vật phẩm tuy hiếm nhưng không đến nỗi kỳ lạ. Có điều khi tấm lệnh bài nhỏ xíu này được khắc thêm một chữ “Minh”, nó không còn là một tấm lệnh bài đơn thuần nữa, mà trở thành chiến thư của thiên hạ đệ nhất cao thủ Minh tướng quân.
Minh Tôn Việt là đại tướng quân của triều đình, uy thế chấn động bốn cõi, trong năm năm bình định xong Bắc Cương, bức bách các tộc Quan Ngoại xưng thần với Trung Thổ. Đối ngoại xong xuôi, ông ta lại chuyển sang dẹp yên nội vụ, chĩa mùi dùi vào các môn các phái trên giang hồ.
Mấy năm nay, ông ta dùng cả ân lẫn uy, khiến vô số môn phái quy thuận.
Trong Hắc Đạo Lục Đại Tôn Sư, Thủy Tri Hàn là Đại tổng quản phủ Tướng Quân, Xuyên Đông Phán Quan chủ động cầu hòa với ông ta, Giang Tây Quỷ thành Lịch Khinh Sinh sai cả đệ tử đến đầu nhập vào phủ Tướng Quân. Chỉ có Nam Phong Phong Niệm Chung cùng Bắc Tuyết Tuyết Phân Phi vẫn bình chân.
Các môn phái hắc đạo cũng thi nhau thần phục, hiện tại thế lực duy nhất có thể đấu với Minh tướng quân là giang hồ đệ nhất đại bang Liệt Không bang, dưới quyền lãnh đạo của Bang chủ Hạ Thiên Lôi phân chia ảnh hưởng với thế lực hắc đạo của tướng quân. Ngoài ra còn có Trùng Đại Sư được coi là bạch đạo đệ nhất sát thủ, cùng tứ đại đệ tử Tần Linh Vận, Tề Sinh Kiếp, Thư Tầm Ngọc, Mặc Lưu Bạch dùng phương thức ám sát đối kháng với Minh Tôn Việt.
Những thế lực nhỏ như Diễm Thiên nhai ở Vân Nam, Vô Song thành ở Quan Trung, Hải Nam Lạc Hoa cung... cũng chỉ dựa vào địa thế xa xôi, thế lực của ông ta không vươn tới mà giữ mình. Những danh môn đại phái Thiếu Lâm, Võ Đang buộc phải trơ mắt nhìn ông ta tung hoành, không dám phản ứng.
Tám năm trước, tấm Tướng Quân lệnh thứ nhất xuất hiện tại phái Trường Bạch.
Lúc đó Ngự tứ Phiên vương Phong Ải Hầu quyết tâm phát triển tại Quan Ngoại, liên hợp thế lực các tộc Tái ngoại bị đàn áp lâu nay, giương ngọn cờ thay trời hành đạo, trừ diệt gian thần mà bái vương lập quốc, chĩa mũi dùi vào Minh tướng quân dưới một người trên vạn người trong triều...
Phái chủ phái Trường Bạch Hứa Liệt dẫn năm trăm đệ tử, công khai tỏ ý ủng hộ Phong Ải Hầu lập quốc, trở thành lực lượng có sức hiệu triệu lớn nhất ở phía bắc Quan Ngoại - trừ Bắc Tuyết Tuyết Phân Phi...
Phong Ải Hầu là hoàng tộc Phiên vương, Minh tướng quân không phụng chiếu nên không dám công nhiên coi là địch nhân, nhưng với phái Trường Bạch thì không.
Vì thế, đạo Tướng Quân lệnh đầu tiên được đưa đến tay Hứa Liệt, lệnh cho lão trong mười ngày phải dâng hết binh khí của phái Trường Bạch, đưa con trai đến làm con tin, coi như trừng phạt nhẹ.
Hứa Liệt tiếp lệnh liền cười vang, bạt kiếm chém người truyền lệnh, treo lệnh bài ngoài cửa sảnh, lệnh cho thủ hạ mỗi lần vào sảnh phải nhổ nước bọt.
Mười ngày sau, Minh tướng quân đích thân dẫn năm trăm tinh binh cùng các cao thủ dưới trướng thần không hay quỷ không biết tiến vào phái Trường Bạch.
Sau bảy chiêu, Hứa Liệt mất mạng trong tay ông ta, toàn bộ năm trăm người của phái Trường Bạch bị quét sạch, từ đó phái này trừ danh khỏi giang hồ!
Mười lăm ngày sau, Phong Ải Hầu mất mạng một cách thần bí trong hầu phủ, toàn thân không có vết thương, duy nhất gần my tâm có điểm đỏ rực.
Giang hồ đồn rằng đó là kiệt tác của đệ nhất sát thủ Quỷ Thất Kinh, thủ hạ của tướng quân.
Trong khi đó Đại tổng quản Thủy Tri Hàn, một trong Hắc Đạo Lục Đại Tôn Sư ở lại trấn thủ kinh sư, quả thật thực lực của Minh tướng quân hùng hậu cực độ.
Năm năm trước, Lộ Thiên Viễn trấn thủ Sơn Hải quan dấy binh tự lập, ngày hôm sau Tướng Quân lệnh xuất hiện trước mặt, lệnh cho hắn về kinh tạ tội.
Lộ Thiên Viễn bỏ qua, điều binh khiển tướng phong tỏa Sơn Hải quan.
Mười ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ hai xuất hiện một cách thần bí trong phòng ái thiếp của hắn, người thiếp yêu này thảm tử ngay trên giường.
Lộ Thiên Viễn quyết chí báo thù cho ái thiếp, giới nghiêm toàn thành truy tìm hung thủ.
Hai mươi ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ ba xuất hiện tại soái sảnh của Lộ Thiên Viễn, hắn cùng mười hai tướng lĩnh thủ hạ đầu một nơi thân một nẻo.
Bốn năm trước, ngự sử Thái Diệu Tông dâng tấu đàn hặc Minh tướng quân, Hoàng thượng nổi giận lôi đình, bãi quan Thái ngự sử. Trước khi ông lên đường, Minh tướng quân sai người đưa một tấm Tướng Quân lệnh đến.
Lần này giang hồ bạch đạo buộc phải xuất động, tứ đại môn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Hoa Sơn đều phái cao thủ đến bảo vệ Thái ngự sử. Tổng tiêu đầu thiên hạ đệ nhất tiêu cục Duy Ngã tiêu cục Lâm Độ tự thân đi cùng, ngoài ra còn nhiều cao thủ giang hồ ngầm bảo vệ.
Năm ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ hai xuất hiện.
Thiếu Lâm Tâm Giác đại sư mất tay trái, Võ Đang Hoa Dương chân nhân mất tay phải.
Mười ngày sau, tấm Tướng Quân lệnh thứ ba xuất hiện.
Nga My Liệt Không sư thái thổ bảy ngụm máu, Hoa Sơn Đỗ trưởng lão kiếm gãy trọng thương, Lâm Độ bị đầu độc mù hai mắt, hai mươi sáu cao thủ giang hồ tử thương.
Thái ngự sử nứt toác lồng ngực, gương mặt bị hủy, không ai nhận ra thi thể băng lãnh từng là bậc ngự sử đường đường!...
Tám năm nay, Tướng Quân lệnh xuất hiện tổng cộng năm lần, số người chết giảm dần nhưng lần sau lại hung hiểm hơn lần trước.
Từ đó không ai dám công nhiên kháng cự Tướng Quân lệnh.
Quân lệnh sơ chí,
Mạc cảm bất tòng;
Quân lệnh tái chí,
Thùy dữ tranh phong;
Quân lệnh tam chí,
Huyết lưu thành hà.
4. Toái Không
Lôi Nộ chìm vào trầm tư, lặng lẽ nhìn tấm Tướng Quân lệnh mỗi lần xuất hiện sẽ dấy lên mưa máu gió tanh trên giang hồ.
Lần này, kết cục của y có giống với những người nhận được lệnh bài trước đây?
Y thoáng do dự, thực lực hiện tại của y đấu với Minh tướng quân khác nào lấy trứng chọi đá.
Người ta sống trên đời, có việc không nên làm, cũng có việc phải làm.
Nhưng, nếu mất đi tính mạng, còn làm được gì?
Y vẫn ngồi thẳng thớm, quyết không thể mất đi tôn nghiêm trước mặt Bát Đại Hộ Pháp của Ngũ Kiếm liên minh, họ liều mạng bảo vệ y, y quyết không thể để họ thất vọng.
Y càng không thể để ái thê Yên Hồng thấy được khía cạnh mềm yếu của mình, nàng yêu y đến vậy, y phải giữ lấy khí khái anh hùng trong lòng nàng.
Hà huống, hiện tại còn một người nữa.
Y nhìn sang thanh niên đưa Tướng Quân lệnh tới với gương mặt thờ ơ.
Thanh niên không nói gì, bạt đao, nhích vai, vung tay.
Chém xuống.
Tất thảy những người trong Phong Lẫm các đều nhìn rõ động tác của gã hết sức tự nhiên, thoải mái như cao sơn lưu thủy. Kỳ quái là từ lúc y xuất đao đến khi hoàn thành nhát chém, không ai có cảm giác bị uy hiếp, cơ hồ đang xem một màn đao vũ, một trường biểu diễn hoàn mỹ vô khuyết, đao quang lạnh lùng nhưng không mang địch ý bung nở từ hư vô, dừng lại trên không rồi tan biến ngay trước mắt.
Một cỗ đao khí bá đạo, phảng phất mang theo phong vị thoáng đãng tràn khắp Phong Lẫm các, trong đao ý phân minh hàm chứa tiết tấu của võ đạo, khiến người khác gõ nhịp tán thưởng, huyết mạch căng phồng, sóng lòng trào lên, tâm hồn xáo động...
Lúc ào ạt như tuấn mã tung vó mang lại xung lực rung chuyển lòng người, lúc nhẹ nhàng lại như làn gió mát mơn qua mặt người thư thái đi dạo. Hai loại cảm giác mẫu thuẫn hợp lại khiến ai nấy nghĩ rằng không phải cây đao chém tới mà đó là cầu vồng rực rỡ tan thành bảy sắc rồi ngưng tụ lại, xa tận chân trời nhưng đưa tay là chạm vào được.
Trong mắt Chúc Yên Hồng, đạo đao quang đó như cây bút vẽ mày sắp phớt qua mặt, mang theo lời thơ của tình nhân.
Trong mắt Bát Đại Hộ Pháp, đạo đao quang lại như như lá cờ rung phần phật trong gió lạnh, tràn lên ý chí chiến đấu vô tận.
Trong mắt Lôi Nộ, đó lại là một dạng “không” nối liền kiếp trước với kiếp này, đao khí thu lại nhưng đao ý vô cùng!
Y ngây người nhìn đạo đao quang xưa này chỉ nghe nói tới chứ chưa được chứng kiến, buột miệng: “Toái - - Không - - Đao!”
Thanh niên mỉm cười, nụ cười đầy mỏi mệt: “Nhát đao này là quà ra mắt Minh chủ”.
Tướng Quân lệnh cứng rắn vô cùng đặt trên mặt bàn trước mặt Lôi Nộ tách ra, hóa thành hai nửa!
5. Đối chọi
“Diệp Phong là người thế nào?”
Ngô Hý Ngôn trầm ngâm hồi lâu rồi lắc đầu.
Thủy Tri Hàn kinh ngạc hỏi: “Có cả việc Ngô tiên sinh không biết ư?”
Ngô Hý Ngôn thở dài: “Tại hạ không hẳn không biết, mà là không nói rõ ràng được”.
Thủy Tri Hàn trầm tư.
Ngô Hý Ngôn lại thở dài: “Cũng như bảo tại hạ phải nói rằng Tổng quản là người thế nào, tại hạ cũng không nói rõ được”.
Thủy Tri Hàn lặng thinh.
Ngô Hý Ngôn thở dài lần thứ ba: “Tại hạ không trả lời rõ được vì những lời đồn về Toái Không Đao Diệp Phong quá nhiều, đến mức không phân biệt nổi. Có người nói gã là quan môn đệ tử [3] của Bắc Tuyết, có người nói gã là con côi của Phong Ải Hầu, lại có người cho rằng gã là cô nhi lớn lên trong nơi hoang dã, cũng có người nhận định gã là thiên tài võ học được Tứ Đại Gia Tộc thần bí Điểm Tình các, Phiên Tiên lâu, Ôn Nhu hương, Anh Hùng trủng hợp lực đào tạo. Bất kể lời đồn thế nào, có hai điểm chắc chắn xác định được, một là gã võ công cực cao, tuy không rõ học từ đâu nhưng đủ đấu với bất kỳ vị cao thủ cấp tôn sư nào; thứ hai, gã lúc chính lúc tà, độc lai độc vãng, có điều chỉ cần là việc đối kháng với tướng quân, gã chưa từng bỏ lỡ bao giờ...”
Thủy Tri Hàn hỏi: “Trên giang hồ nhận xét về gã thế nào? Ngô tiên sinh cứ nói thẳng thắn”.
Ngô Hý Ngôn ngẫm nghĩ hồi lâu: “Toái Không Đao được xưng là ‘đao ý hành không, đao khí hoành không, đao phong lược không, đao quang toái không’, dùng đao khí vô chất đả thương địch thủ hữu chất, trong vòng trăm năm nay gã là người đầu tiên luyện thành hư không đao ý, đao pháp cao siêu gần sánh được với Đao Vương Tần Không, thật sự là kình địch của Minh tướng quân”. [4]
Thủy Tri Hàn trầm giọng: “Vì sao gã luôn đối đầu với tướng quân?”
Ngô Hý Ngôn đáp: “Về chuyện này trên giang hồ cũng có nhiều lời đồn, nhưng không lời đồn nào thuyết phục. Diệp Phong đao pháp tuy cao nhưng với sức mình gã tuyệt đối không địch nổi số đông cao thủ dưới trướng tướng quân. Xưa nay gã độc lai độc vãng, tung tích quỷ bí, để đạt mục đích bất kể thủ đoạn, hoặc ẩn trong bóng tối ám sát, hoặc ra mặt quyết đấu, hoặc tung ra lôi đình nhất kích, xuất thủ xong liền lập tức đi xa, có địch nhân như gã quả thật ai cũng phải đau đầu”.
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Tướng quân chỉ coi gã là thằng hề đang diễn trò, Thủy mỗ chống mắt lên xem gã múa may được đến bao giờ?”
Ngô Hý Ngôn cười hăng hắc: “Dù tướng quân không coi Diệp Phong là đại địch nhưng đúng lúc thực lực của ngài lên đến đỉnh cao, gã xuất hiện khác nào một vết thương trí mệnh. Người giang hồ đều thoái lui ba bước trước tướng quân, duy có Toái Không Đao không cần biết đến sống chết, dốc sức một mình chống lại, cổ vũ sĩ khí cho địch nhân của ngài. Nếu gã đứng lên hô hào, chỉ e sẽ tập kết được không ý kẻ chống đối, tất khiến tướng quân đau đầu. Không ít người trên giang hồ coi gã là biểu tượng chống lại tướng quân, đương nhiên gã là mối lo trong lòng tướng quân, cũng là kình địch của ngài”.
Thủy Tri Hàn bật cười: “Các kình địch của tướng quân, Ngụy công tử, Ám Khí Vương, Phong Ải Hầu đều xong đời, Trùng Đại Sư ẩn mình, Nam Phong, Bắc Tuyết, Hạ Thiên Lôi chẳng qua đang lay lắt chống cự, sớm muộn gì cũng chết trong tay tướng quân”.
Ngô Hý Ngôn lại cạn một chén, sắc mặt có vẻ ngà ngà, lẩm bẩm: “Đời người trăm năm, chớp mắt là qua, sau cùng đều là một nắm đất, có gì khác nhau đâu...”
Mắt Thủy Tri Hàn hiện lên sát cơ, hừ lạnh: “Lần này, Thủy mỗ sẽ khiến trên giang hồ không còn nhân vật như Toái Không Đao”.
Tâm niệm Ngô Hý Ngôn xoay chuyển, thần tình hơi biến đổi, buột miệng thốt: “Tháng trước nghe nói Toái Không Đao Diệp Phong xuất hiện tại Giang Nam, Tướng Quân lệnh liền được truyền đến Ngũ Kiếm liên minh ở Tô Châu...”
Thủy Tri Hàn lạnh lùng: “Ngô tiên sinh uống hơi nhiều rồi, nên biết giữ mồm giữ miệng một chút”.
Ngô Hý Ngôn nhìn gương mặt lạnh lùng của y, trong lòng dâng lên một cỗ hàn ý, há miệng nửa chừng nhưng không thốt thành tiếng.
Lẽ nào lần này Tướng Quân lệnh đột nhiên truyền đến Ngũ Kiếm liên minh chỉ là một nước cờ để đối phó với Toái Không Đao?
6. Cầu Tư
Chúc Yên Hồng đương nhiên là nữ nhân mỹ lệ, nhưng ai thấy nàng lần đầu đều không cảm giác thấy sắc đẹp mà là một loại “nhu”.
Vừa trầm tĩnh như nước, lại như khẽ động tới sẽ khiến mặt nước lăn tăn, gợn lên những vòng sóng.
Nàng cũng như mớ tóc dài tha thướt tùy ý buông xuống, tùy theo từng đường cong của thân thể mà uốn lượn triền miên, tô điểm gấp bội cho thân thể yêu kiều. Nữ tử như nàng mang lại cho người khác cảm giác yểu điệu hơn là kiều diễm.
Nhưng bàn tay xinh đẹp gợi cho người khác ý nghĩ phải nắm lấy ấy đang vuốt ve một cây kiếm.
Một cây kiếm không hề hợp với nàng nhưng lại khiến ai cũng thấy rằng nàng đương nhiên phải có.
Thân là Minh chủ phu nhân của Ngũ Kiếm liên minh, lẽ nào không có kiếm?
Cây kiếm này do trượng phu tặng nàng vào dịp sinh nhật hai mươi lăm tuổi, chỉ dài hơn năm tấc, trang trí tinh xảo, cực kỳ sắc bén. Lưỡi xanh biếc, tua vàng nhạt, cây kiếm giống một tác phẩm nghệ thuật hơn là lợi khí sát nhân.
“Thanh kiếm này ta lấy được trong một ngôi cổ mộ từ ba tháng trước, giờ tặng cho nàng để phòng thân”. Lúc đó, Lôi Nộ nói vậy.
Y có hiểu tâm tư nàng không? Lẽ nào y không biết nàng là nữ tử căm ghét chém chém giết giết? Lẽ nào y không biết nàng chỉ là một cô bé có thể khóc hay cười vì một cánh hoa rơi, một lá cỏ như tơ, một món đồ chơi khả ái hay một con vật nhỏ xíu?
Một lưỡi kiếm nho nhỏ thế này, để cắt móng tay hay tỉa hoa cỏ chẳng phải tốt lắm ru?
Đương nhiên nàng không nói ra ý nghĩ trong lòng, chỉ ngắm nghía cây tiểu kiếm như đang ngắm một cây kim thêu.
Thân kiếm khắc hai chữ triện mang ý vị cổ kính - - “Cầu Tư”.
Lòng nàng khẽ ngâm khúc cổ nhạc khuyết danh “Hán Quảng” trong Kinh Thi:
Nam hữu kiều mộc,
bất khả hưu tức;
Hán hữu du nữ,
bất khả cầu tư... [5]
Nàng thích cây kiếm này, thích ý nghĩa đau mà không thương, oán mà không hận, nỗi niềm quyến luyến và khát vọng trong trắng chỉ may mắn gặp được chứ không thể cưỡng cầu.
Giờ nàng đã hai mươi bảy, thời gian hai năm đủ để thay đổi rất nhiều thứ chăng?
“Mấy hôm này, nàng lúc nào cũng phải mang cây kiếm này theo, ta không muốn nàng sa vào tay địch nhân”. Mười ngày trước, chồng nàng đã nói như thế.
Y không biết rằng từ khi y tặng nàng thanh Cầu Tư kiếm này, chưa bao giờ nàng rời nó.
Bao năm rồi, lúc y nhớ đến cây kiếm cũng chỉ muốn nhắc nhở nàng: “Ta không muốn nàng sa vào tay địch nhân...”
Lúc đó nàng mới biết, Cầu Tư không phải để cự địch, cũng không để tỉa hoa cỏ mà khi bị bắt, nó dùng để tự tận trước khi bị làm nhục.
Nàng là Minh chủ phu nhân, là vợ Lôi Nộ. Nàng không thể nhẫn nhục sống trộm, không thể để người khác ô nhục, bởi thứ bị hủy đi không chỉ là trinh tiết của nàng, còn là tôn nghiêm của y.
Đúng vậy, trong tình huống này, có phải nàng làm gì cũng vì tôn nghiêm của y hơn là bổn phận một thê tử?
Nàng không biết, cũng không muốn biết.
Nàng chỉ biết “Toái Không Đao” Diệp Phong thường được người ta nhắc tới đã đến rồi, hơn nữa lại muốn cùng chồng nàng sánh vai chống lại Tướng Quân lệnh của Minh tướng quân.
Người thanh niên có ánh mắt đượm buồm, mặt đượm man mác, khi cười giống như trẻ thơ này lại là “Toái Không Đao” Diệp Phong danh chấn giang hồ, gã giống một thần thoại hơn là một con người.
Nàng vốn không hảo cảm gì với cái tên này, đằng sau cái tên đó cũng chỉ là một kẻ giống chồng nàng hoặc thủ hạ của y: lúc nào cũng cười nói oang oang, rồi sẽ vừa đàm luận về nữ nhân vừa nhắc đến giang hồ, dùng ánh mắt cơ hồ xuyên qua y phục nhìn nàng, nói ra những lời thô thiển không cần biết đến cảm thụ của nàng, bàn đến chính sự tất gạt nàng ra, xưa nay chưa từng cho nàng tham dự. Dù là chồng nàng cũng chỉ che chắn trước mặt nàng khi đao chém tới, liều mạng giết địch rồi lại phóng túng trên mình nàng, cười nhạo khi nàng chôn hoa, bỡn cợt lúc nàng u oán...
Nhưng Diệp Phong đến rồi, câu đầu tiên gã nói là mười người phải cùng nhau kháng địch.
Hơn nữa trong mười người đó có cả nàng, cả nữ nhân nhỏ nhoi trói gà không chặt, chỉ biết đánh đàn, chơi cờ, ngâm thơ, trồng hoa...
Trong giây phút đó, nàng không còn cảm giác mình chỉ biết phụ thuộc vào nam nhân, không còn là vật mua vui riêng của ai.
Mà đột nhiên nàng trở thành bằng hữu, huynh đệ, chiến hữu, thậm chí là niềm vui của một người...
Tất cả chỉ vì gã đã tới, vì một câu nói của gã...
Lúc đó, gã còn chưa xuất đao, đã dễ dàng cắt đứt oán hờn suốt hơn hai mươi năm của nàng.
---------------------------------------------------------------------------
[1] Tạm dịch: Nước vô định, hoa rơi hết sẽ tương phùng, nhưng kiếp người cứ đằng đẵng trong ly biệt.
[2] Tạm dịch: Quân lệnh đến lần đầu, ai dám không tuân; quân lệnh lại tới, ai dám tranh phong; quân lệnh đến lần thứ ba, máu sẽ chảy thành sông.
[3] Đệ tử thu sau cùng
[4] Tạm dịch: Đao ý xuất hiện trên không, đao khí vạch ngang tầng không, đao phong lướt qua tầng không, đao quang chấn nát tầng không
[5] Bản dịch của Tạ Quang Phát:
Núi nam có cây trụi cao,
Mọi người chẳng thể tựa vào nghỉ ngơi.
Các cô sông Hán dạo chơi,
Đoan trang chẳng thể trao lời cầu mong...
Danh sách chương