Annabeth tình nguyện đi một mình vì cô ấy có chiếc mũ tàng hình, nhưng tôi thuyết phục cô ấy rằng như vậy cũng quá nguy hiểm. Hoặc là tất cả chúng tôi cùng đều đi cùng nhau, hoặc chẳng ai đi cả.

“Không ai cả!”Tyson nhất trí. “Làm ơn đi?”

Nhưng cuối cùng cậu ấy cũng đi theo, bồn chồn gặm những chiếc móng tay khổng lồ của mình. Chúng tôi dừng lại trong buồng tàu đủ lâu để gói ghém đồ. Chúng tôi tính rằng dù chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng tôi cũng sẽ không ở đây thêm một đêm nào nữa trên con tàu du lịch đầy thây ma này. Thậm chí dẫu họ có chơi trò bingo trị giá triệu đô đi chăng nữa. Tôi chắc rằng cây Thủy Triều ở trong túi áo tôi và những viên vitamins, cái chai do thần Hermes trao tặng vẫn nằm trên cùng trong chiếc túi của tôi. Tôi không muốn Tyson mang tất cả mọi thứ nhưng cậu ấy cứ khăng khăng muốn làm điều đó, và Annabeth khuyên tôi không nên lo lắng về chuyện này. Tyson có thể vác trên vai vài ba chiếc túi đầy một cách nhẹ nhàng như tôi đeo ba lô vậy.

Chúng tôi rón rén băng qua hành lang, theo các tấm bảng hiệu CÁC BẠN ĐÃ Ở ĐY của con tàu hướng tới phòng đô đốc. Annabeth vô hình đi trước do thám. Chúng tôi trốn mỗi khi có ai đó đi ngang qua, nhưng hầu hết những người mà chúng tôi nhìn thấy là những hành khách xác ướp với những con mắt đờ đẫn vô hồn.

Khi chúng tôi đến cầu thang để lên lầu mười ba - nơi được cho là phòng của đô đốc - Annabeth vội xuỵt. “Trốn đi!” và đẩy chúng tôi vào một kho dự trữ.

Tôi nghe thấy tiếng hai người đàn ông đang đi xuống sảnh.

“Mày có nhìn thấy con rồng Aethiopian đó trong toa hàng không?” một đứa cất tiếng.

Gã còn lại cười phá lên, “Ừ, thật khiếp.”

Annabeth vẫn đang tàng hình nhưng cô ấy nắm chặt lấy cánh tay tôi. Tôi có cảm giác mình khá quen với giọng nói của gã thứ hai.

“Tao nghe thấy nói có thêm hai nữa được đưa tới đấy,” giọng nói quen thuộc này vẫn tiếp tục. “Chúng vẫn tiếp tục được gởi đến. Ôi trời, không tranh luận nữa!”

Tiếng trò chuyện khuất dần phía cuối hành lang.

“Đó là Chris Rodriguez!” Annabeth nhấc chiếc mũ ra và trở lại nguyên hình. “Cậu có nhớ không? Người ở khu nhà số Mười Một ấy.”

Tôi phần nào nhớ lại về Chris từ hè năm ngoái. Cậu ấy là một trong số trại viên chưa được xác định thân thế - người mắc lại trong khu nhà của thần Hermes vì ông bố hoặc bà mẹ thần thánh của cậu ấy trên đỉnh Olympus chưa bao giờ chịu thừa nhận cậu. Và giờ đây khi nghĩ lại chuyện này, tôi nhận ra chính mình chưa nhìn thấy Chris ở trại vào mùa hè này. “Vậy một người con lai khác làm gì ở đây thế nhỉ?”

Annabeth lắc đầu, cố làm rõ ràng mọi việc.

Chúng tôi vẫn tiếp tục đi xuôi xuống hành lang. Tôi không cần bản đồ một chút nào nữa cũng đủ biết rằng mình đang tiến tới gần Luke. Tôi nhận thấy có cái gì đó rất lạnh lẽo và không thoải mái - đó chính là sự có mặt của cái xấu.

“Percy.” Annabeth đột ngột dừng lại và nói. “Nhìn kìa!”

Cô ấy đứng trước một bức tường kính, nhìn xuống hẻm núi nhiều tầng chạy khắp một nửa con tàu. Ở tận cùng là Promenade - một khu trung tâm mua sắm với nhiều cửa tiệm - nhưng đó không phải là điều khiến Annabeth chú ý.

Một nhóm người quái vật tụ tập phía trước cửa hàng kẹo: hơn mười đứa khổng lồ Laistrygonian giống như bọn đã từng tấn công tôi với những quả bóng lửa, hai con chó ngao và một số sinh vật thậm chí còn lạ lùng hơn – những người phụ nữ có hình dáng như con người với những cái đuôi rắn kép được thay thế cho những đôi chân.

“Scythian Draceaenae (1) đấy!” Annabeth thì thầm. “Những người phụ nữ rồng.”

(1) Là người cai trị đầu tiên của vùng đất Skythia (hiện là Ukraine), với phần thân trên là hình dáng của một phụ nữ, phần dưới là hai cái đuôi rắn thay thế cho đôi chân, đôi mắt vàng, làn da vảy có màu xanh lá cây. Khi Heracles đi ngang qua vương quốc của bà ta để đến lâu đài Geryon, bà ta đã ăn trộm một vài con vật nuôi và ngựa của người anh hùng. Sau đó bà ta khăng khăng bắt Heracles phải ngủ với mình thì bà ta mới chịu trả chúng lại. (ND)

Những con quái vật ngồi thành hình bán nguyệt quanh một gã trai mặc áo giáp Hy Lạp – người đang chém mạnh vào bù nhìn bằng rơm. Cổ họng tôi nghẹn tắc lại khi nhận ra hình nộm đó đang mặc chiếc áo phông màu da cam của Trại Con Lai. Khi chúng tôi đang xem, gã mặc áo giáp đâm xuyên qua bụng bù nhìn và xé toạc nó ra. Rơm bay lung tung khắp nơi. Lũ quái vật hò hét cổ vũ ầm trời.

Annabeth bước ra xa khỏi cửa sổ. Mặt cô ấy xám ngoét.

“Đi thôi,” tôi nói với cô ấy, cố để giọng can đảm hơn tôi cảm thấy. “Chúng ta tìm được Luke càng sớm càng tốt.”

Tận cùng hành lang là chiếc cửa hai cánh bằng gỗ sồi, như thể chúng sẽ dẫn tới nơi nào đó quan trọng. Khi chúng tôi chỉ còn cách chúng mười mét, Tyson dừng lại, cảnh báo. “Có tiếng bên trong.”

“Cậu có thể nghe được xa thế à?” tôi ngạc nhiên hỏi.

Tyson nhắm mắt lại như thể đang gắng tập trung. Rồi tiếp đó giọng cậu ấy thay đổi, trở nên khàn khàn giống như giọng của Luke. “… lời tiên tri của chúng ta. Lũ ngu đó sẽ không biết đường nào mà lần đâu.”

Trước khi tôi có thể phản ứng lại, giọng của Tyson lại thay đổi lần nữa, trở nên trầm và cộc cằn hơn, giống như giọng gã đàn ông mà chúng tôi đã nghe thấy khi hắn nói với Luke bên ngoài quán ăn tự phục vụ. “Mày có thực sự nghĩ rằng lão ngựa già đó đi thì tốt hơn không?”

Tyson cười tiếng cười của Luke. “Chúng không thể tin ông ta nữa rồi. Không phải với những bộ xương trong tủ của hắn. Việc đầu độc cái cây là giọt nước làm tràn ly.”

Annabeth rùng mình sợ hãi. “Dừng ngay lại, Tyson! Sao cậu lại có thể làm thế được. Thật sởn gai ốc.”

Tyson mở mắt ra và nom thật bối rối. “Tớ chỉ đang nghe thôi.”

“Cứ tiếp tục đi.” Tôi nói. “Chúng còn nói gì nữa?”

Tyson nhắm mắt lại.

Cậu ấy rít lên giận dữ bằng giọng của gã đàn ông cục cằn kia. “Yên lặng nào!” Rồi tiếng của Luke thì thầm, “Mày chắc chứ?”

“Đúng thế,” Tyson trả lời bằng giọng cộc cằn. “Ngay bên ngoài.”

Quá muộn rồi. Tôi đã nhận ra điều gì đang xảy ra.

Tôi chỉ có thời gian để thét lên, “Chạy!” khi cánh cửa phòng bật mở. Và Luke với bên cạnh là hai gã khổng lồ rậm lông được trang bị vũ khí bằng những ngọn lao, chóp lao bằng đồng của chúng đã ấn đúng ngực chúng tôi.

“Nào nào,” Luke nói với nụ cười xảo quyệt. “Đây không phải là hai người họ hàng yêu thích của ta sao. Vào đây đi”

Căn phòng rất đẹp nhưng cũng rất kinh khủng.

Phần đẹp đẽ ở chỗ: những chiếc cửa sổ lớn được uốn cong dọc theo bức tường phía sau, nhìn ra được ngoài phía đuôi tàu. Một tấm thảm Ba Tư được trải trên sàn. Hai chiếc ghế sofa bọc nhung choán đúng phần chính giữa căn phòng. Một chiếc giường có màn trướng ở một góc phòng và chiếc bàn ăn bằng gỗ dái ngựa ở góc còn lại. Trên bàn bày ê hề thức ăn: các hộp bánh pizza, các chai soda, rất nhiều bánh kẹp sandwiches thịt bò nướng trên một chiếc đĩa bạc.

Phần kinh khủng: trên một cái bục bằng nhung đặt cuối căn phòng có đặt một chiếc quan tài vàng dài ba mét. Một chiếc quách được chạm trổ các hình ảnh của các thành phố Hy Lạp cổ trong lửa và những người anh hùng giãy dụa trong cái chết rừng rợn. Bất chấp ánh mặt trời xuyên qua các ô cửa sổ, chiếc quan tài khiến cả căn phòng thấy rất lạnh lẽo.

“Nào!” Luke nói, giang rộng hai tay đầy tự hào. “Đẹp hơn Khu trại số Mười Một phải không?”

Anh ấy đã thay đổi kể từ hè năm ngoái. Thay cho áo phông và quần soóc Bermuda, Luke mặc áo sơ mi cài nút, quần kaki và giày lưới bằng da. Mái tóc hung của anh ấy vốn đã được cho là quá ngỗ ngược, giờ đây lại còn ngắn hơn nữa. Nom anh ấy giống như một người mẫu nam xấu xa, phô bày cái mà thằng nhóc tinh quái thời thượng đang mặc tới trường Harvard vào hè này.

Luke vẫn còn vết sẹo dưới mắt – một đường trắng lởm chởm từ trận chiến của anh ấy với một con rồng. Và dựng kế cái ghế sofa là thanh kiếm phép thuật của anh ấy – Backbiter. Nó tỏa sáng quái dị với lưỡi kiếm nửa thép, nửa đồng Celestial có thể giết được cả con người lẫn quái vật.

“Ngồi đi,” anh ấy nói với chúng tôi và phẩy tay một cái, ba chiếc ghế ăn đã tự bày ra giữa phòng.

Không ai trong chúng tôi chịu ngồi cả.

Những người bạn lớn của Luke vẫn chĩa những ngọn lao về phía chúng tôi. Trông chúng như sinh đôi, nhưng không phải là người. Chúng đứng phải cao tới hai mét rưỡi và chỉ mặc quần jeans màu xanh, chắc chắc là do bộ ngực to lớn của chúng được phủ một lớp lông nâu dày. Những ngón tay được thay bằng móng vuốt, bàn chân giống như chân thú. Mũi chúng giống với mũi của động vật, răng của chúng là những chiếc răng nanh nhọn hoắt.

“Phép lịch sự của ta đâu rồi nhỉ?” Luke nói bằng giọng trơn tuột. “Đây là các trợ lý của ta, Agrius và Oreius. Có lẽ các ngươi đã nghe nói về chúng.”

Tôi im lặng. Ngoại trừ những ngọn lao chọc vào người, hai gã sinh đôi như gấu đó cũng không khiến tôi sợ hãi.

Tôi đã tưởng tượng cảnh gặp lại Luke rất nhiều lần kể từ khi anh ấy cố giết tôi vào hè năm ngoái. Tôi đã nhìn dung hình ảnh chính mình dũng cảm đương đầu với anh ấy, thách thức anh ấy cùng đấu tay đôi. Nhưng giờ đây khi mặt đối mặt, tôi chỉ có thể vừa ngăn cho tay mình không bị run rẩy.

“Các ngươi không biết câu chuyện về Agrius và Oreius sao?” Luke hỏi. “Mẹ chúng… ừm, chuyện này thực sự rất buồn. Thần Aphrodite hạ lệnh cho cô gái trẻ đó phải yêu. Cô ấy đã từ chối và chạy tới thần Artemis nhờ giúp đỡ. Thần Artemis đã để cô trở thành một trong số thợ săn đồng trinh của mình. Nhưng thần Aphrodite đã trả thù bằng cách bỏ bùa mê khiến cho cô ấy yêu một con gấu. Khi thần Artemis phát hiện ra, bà đã ruồng bỏ cô gái trong cơn phẫn nộ. Đó là tính cách tiêu biểu của các vị thần, các ngươi sẽ nói thế phải không? Họ chống lại nhau và những con người đáng thương bị kẹt ở giữa. Đây là hai đứa con trai song sinh của cô ấy, Agrius và Oreius, đều không yêu quý đỉnh Olympus. Chúng cũng đủ yêu quý những đứa con lai, mặc dù…”

“Cho bữa trưa.” Agrius lầm bầm. Cái giọng cộc lốc của hắn chính là giọng tôi đã nghe khi hắn nói chuyện với Luke trước đây,

“Hehe! Hehe!” Người anh em song sinh của hắn là Oreius cười phá lên và liếm môi. Hắn vẫn tiếp tục cười như thể đang mắc chứng hen suyễn cho tới khi cả Luke và Agrius đều nhìn hắn.

“Im đi, đồ ngu!” Agrius cằn nhằn. “Hãy tự phạt mình đi!”

Oreius thút thít. Hắn chậm chạp đi về phía góc căn phòng, ngồi sụp xuống một cái ghế đẩu, đập mạnh trán xuống bàn ăn, khiến cho những chiếc đĩa bạc kêu lanh canh.

Luke phản ứng như thể đó là một cách cư xử hoàn toàn hết sức bình thường. Anh ấy hoàn toàn duỗi người trên ghế sofa và gác thẳng chân lên mặt bàn café. “Nào, Percy. Chúng ta sẽ để ngươi sống sót tới năm nữa. Ta hy vọng ngươi sẽ lấy làm vui mừng vì điều đó. Mẹ ngươi sao rồi? Trường học thế nào?”

“Anh đã đầu độc cây của Thalia”

Luke thở dài. “Ờ, đi thẳng vào vấn đề à? Được rồi, đúng là ta đã đầu độc cái cây đó. Vậy sao nào?”

“Sao anh lại?” Giọng Annabeth đầy giận giữ tới mức tôi cũng nghĩ rằng cô ấy sẽ nổ tung mất. “Thalia đã cứu sống anh! Cứu sống chúng ta. Sao anh lại có thể làm ô danh cô ấy…”

“Anh không làm ô danh cô ấy!” Luke ngắt lời cô ấy. “Chính các vị thần mới làm điều đó, Annabeth à! Nếu Thalia còn sống, cô ấy sẽ đứng về phía anh.”

“Nói láo.”

“Nếu em biết điều gì sắp xảy ra, em sẽ hiểu…”

“Em hiểu là anh muốn phá hoại trại!” cô ấy hét lên. “Anh là một con quái vật”

Luke lắc đầu. “Các vị thần đã làm em mù quáng rồi. Em không thể tưởng tượng ra một thế giới mà không có họ sao, Annabeth? Điều gì hay ho từ những câu chuyện lịch sử cổ xưa mà em học? Ba ngàn năm vô tích sự. Phương Tây đã thối nát tới tận xương tủy. Nó cần bị phá hủy. Hãy theo anh! Chúng ta có thể bắt đầu một thế giới mới. Chúng ta có thể sử dụng trí thông minh của em, Annabeth.”

“Chính vì anh không có một chút thông minh nào cả!”

Mắt anh ta nheo hết lại. “Anh biết em mà, Annabeth. Em xứng đáng được hưởng những thứ tốt hơn chuyện rong ruổi trong một vài cuộc tìm kiếm vô vọng để cứu trại. Trong vòng một tháng, Trại Con Lai sẽ bị lũ quái vật tàn phá. Những anh hùng còn sống sót sẽ không có lựa chọn mà phải gia nhập cùng bọn anh, hoặc sẽ bị săn lùng tiêu diệt bằng sạch… với người bạn đồng hành này sao?” Luke chỉ vào Tyson.

“Này!” Tôi quát lên.

“Đi cùng với một Cyclops cơ đấy,” Luke khiển trách. “Lại còn nói về chuyện làm ô danh kí ức về Thalia nữa cơ đấy. Anh lấy làm kinh ngạc về em đấy, Annabeth à. So với tất cả mọi người, em…”

“Im ngay!” Cô ấy hét lên.

Tôi không biết Luke đang nói về chuyện gì nhưng Annabeth đã ôm chặt đầu như sắp khóc.

“Để cô ấy được yên,” Tôi nói. “Và để Tyson ra ngoài chuyện này.”

Luke phá lên cười. “Ồ, đúng rồi. Ta nghe nói. Cha cậu đã thừa nhận hắn”

Trông tôi hẳn kinh ngạc lắm vì Luke vẫn mỉm cười. “Đúng thế, Percy. Ta biết tất cả mọi chuyện. Cả kế hoạch đi tìm Bộ Lông Cừu Vàng của cậu nữa. Các tọa độ đó là gì nhỉ… 30-31-75-12 phải không? Cậu thấy chưa, ta vẫn còn bạn bè ở trại thông tin cho ta.”

“Ý anh là gián điệp”

Anh ấy nhún vai. “Có bao nhiêu lời sỉ nhục từ cha cậu mà cậu có thể chịu đựng được, hả Percy? Cậu nghĩ rằng ông ấy biết ơn cậu sao? Cậu nghĩ rằng thần Poseidon quan tâm tới cậu nhiều hơn sự quan tâm của ông ta dành cho con quái vật này không?”

Tyson siết chặt nắm đấm và bắt đầu gầm gừ trong họng.

Luke chỉ cười khúc khích. “Lũ thần đó đang quá lợi dụng cậu thôi, Percy à. Cậu có ý tưởng gì về điều dành cho cậu trong tương lai vào thời điểm sinh nhật mười sáu tuổi của mình không? Chiron vẫn chưa nói cho cậu về lời Sấm Truyền sao?”

Tôi như muốn đấm vào mặt Luke và bắt anh ấy câm đi. Nhưng như thường lệ, anh ấy biết cách làm cho tôi bối rối.

Sinh nhật mười sáu tuổi sao? Ý tôi là, tôi biết bác Chiron đã nhận được Lời Sấm Truyền từ Nhà Tiên Tri đã nhiều năm rồi. Tôi biết một phần của Lời Sấm Truyền là về tôi. Nhưng nếu tôi tới sinh nhật mười sáu tuổi thì sao? Tôi không thích cái giọng như vậy.

“Tôi biết điều mà tôi cần biết” tôi kìm chế. “Như kẻ thù của tôi vậy.”

“Thế thì cậu là một thằng ngốc.”

Tyson đập mạnh cái ghế gần nhất thành nhiều mảnh. “Percy không phải là thằng ngốc!”

Trước khi tôi có thể ngăn cậu ấy lại, cậu ấy đã tấn công Luke. Nắm đấm của cậu ấy giáng xuống đầu của Luke – hai cú đấm từ trên cao hạ xuống như thế có thể sẽ làm thủng một lỗ trên một tấm titan – nhưng hai gã song sinh đã chặn đứng. Mỗi một đứa giữ một tay của Tyson và ngăn cậu ấy lại một cách dễ dàng. Chúng đẩy cậu ấy lùi lại và Tyson loạng choạng. Cậu ấy té xuống tấm thảm mạnh đến nỗi cả sàn tàu rung rinh theo một cú ngã của cậu ấy.

“Tệ quá. Cyclops à,” Luke châm chọc. “Có vẻ những người bạn hay khóc nhè của ta cùng bên nhau sẽ mạnh hơn sức mạnh của mày. Có lẽ ta nên để chúng đi…”

“Luke,” tôi cắt ngang. “Hãy nghe tôi. Cha anh gửi chúng tôi tới”

Gương mặt của anh ấy chuyển sang màu đỏ ửng. “Đừng-bao giờ-nhắc đến ông ta.”

“Ông ấy bảo chúng tôi lên con tàu này. Tôi nghĩ rằng đó chỉ là một chuyến đi, nhưng ông ấy gửi chúng tôi tới đây để tìm anh. Ông ấy nói rằng sẽ không bỏ rơi anh, cho dù anh có giận giữ thế nào đi chăng nữa”

“Giận giữ ư?” Luke gầm lên. “Bỏ rơi ta ư? Ông ta đã ruồng bỏ ta, Percy! Ta muốn Olympus bị phá hủy! Từng cái ngai phải bị đập vụn. Cậu hãy nói cho thần Hermes biết điều đó sắp diễn ra, các vị thần ở định Olympus càng yếu hơn và chúng ta càng mạnh hơn. Ông ta càng mạnh hơn.” Luke chỉ vào chiếc quách vàng.

Chiếc hộp khiến tôi sợ hãi, nhưng tôi kiên quyết không để lộ điều này ra. “Thế thì sao?” tôi hỏi gặng. “Cái gì quá đặc biệt…”

Rồi tôi như chợt bừng tỉnh, bên trong chiếc quách này có thể là cái gì. Nhiệt độ trong phòng dường như sụt xuống hai mươi độ. “Woa, ý anh không phải là…?”

“Ông ấy đang tái tạo lại” Luke nói. “Từng chút một. Bọn ta đang triệu hồi năng lượng cuộc sống của ông ấy ra khỏi miệng hố. Cứ mỗi một người mới cam kết về theo phe bọn ta, mảnh nhỏ khác sẽ xuất hiện…”

“Thật ghê tởm!” Annabeth khinh bỉ.

Luke chế nhạo cô ấy. “Mẹ em chẳng phải được sinh ra từ vết nứt trên sọ của Zeus sao, Annabeth. Anh sẽ không nói. Ngay khi có đủ các thần titan để chúng ta có thể tạo nên toàn bộ con người ông ta. Chúng ta sẽ ghép chúng vào nhau để có một cơ thể mới cho ông ta, một công việc thích hợp cho các lò rèn của Hephaestus”

“Anh điên mất rồi.” Annabeth nói.

“Hãy gia nhập với bọn anh và em sẽ được thưởng công. Bọn anh có những người bạn quyền lực, những nhà tài trợ đủ giàu để mua con tàu du lịch này và nhiều thức khác nữa. Percy, mẹ em sẽ không bao giờ phải làm việc. Em có thể mua cho bà một căn biệt thự. Em có thể có quyền lực, danh tiếng – bất cứ điều gì em muốn. Còn Annabeth, em có thể thực hiện được ước mơ trở thành một kiến trúc sư. Em có thể xây một đài tưởng niệm tồn tại đến một ngàn năm sau. Một ngôi đền cho các vị thần của kỷ nguyên sắp đến!”

“Hãy cút xuống địa ngục đi!” Annabeth nguyền rủa.

“Luke thở dài. “Thật đáng tiếc.”

Anh ấy cầm lên một vật gì đó nom rất giống một chiếc điều khiển ti vi lên và nhấn nút đó. Chỉ vài giây, chiếc cửa phòng khách tiết được mở ra và hai thủy thủ mặc đồng phục tiến vào, được trang bị những chiếc gậy tuần đêm. Họ cũng có những con mắt đờ đẫn vô hồn giống như những người thường khác mà tôi đã gặp. Nhưng tôi có cảm giác điều đó không hề khiến chúng ít nguy hiểm hơn trong chiến đấu.

“A, tốt lắm, đội bảo vệ” Luke tán dương. “Ta e ngại rằng chúng ta có vài kẻ đi lậu vé.”

“Vâng, thưa ngài.” Họ mơ màng đáp.

Luke quay về phía Oreius. “Đã đến lúc cho rồng Aethiopian ăn rồi. Hãy mang lũ ngu này xuống dưới và cho chúng thấy kết thúc ra sao.”

Oreius cười ngớ ngẩn “Hehe! Hehe!”

“Để cả ta đi cùng” Agrius cằn nhằn. “Thằng em ta vô tích sự lắm. Cái thằng Cyclops đó…”

“Không nguy hiểm lắm đâu” Luke nói. Anh ta liếc nhanh về phía các quách vàng như thể có chứa thứ gì đó đang khiến anh ta cảm thấy lo lắng. “Agrius, cứ ở lại đây. Chúng ta còn các vấn đề quan trọng cần bàn.”

“Nhưng…”

“Oreius, đừng làm ta thất vọng. Phải ở trong hầm để bảo con rồng đã được ăn no đấy!”

Oreius dung mũi ngọn lao thúc chúng tôi đi và dồn chúng tôi ra khỏi phòng khánh tiết, theo sau là hai người bảo vệ con người.

***

Khi đi về phía cuối hành lang với ngọn lao của Orieus đang chọc chọc sau lưng, tôi nghĩ về điều mà Luke đã nói – hai con gấu sinh đôi ở cùng nhau sẽ đối chọi được với sức mạnh của Tyson. Nhưng có thể khi bị tách ra thì…

Chúng tôi đi ra từ hành lang ở phần giữa của con tàu và đi băng qua một boong tàu mở với những chiếc thuyền cứu sinh. Tôi biết đủ rõ con tàu này để nhận ra rằng đây có thể là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy anh sáng mặt trời. Khi chúng tôi bước sang phía bên kia, chúng tôi dùng thang máy để đi xuống hầm và điều gì đó sẽ xảy ra.

Tôi nhìn Tyson và giục, “Ngay bây giờ.”

Cám ơn trời, cậu ấy hiểu ý tôi muốn nói. Cậu ấy quay ngoắt lại và tống vào tên Oreius một phát bắn ngược lại phải tới mười mét, rơi tõm xuống bể bơi, vào giữa một gia đình du khách thây ma.

“Ah!” bọn trẻ cùng nhau hét vang lên. “Chúng ta không có thuốc nổ trong hồ chứ.”

Một gã bảo vệ rút gậy ra nhưng Annabeth đã nhanh như gió tung cho hắn một cú đá tuyệt đẹp. Gã còn lại cuống cuồng chạy tới chỗ chuông báo động gần nhất.

“Ngăn hắn lại!” Annabeth kêu lên nhưng đã quá muộn.

Trước khi tôi kịp đập cả cái ghế vào đầu hắn, hắn đã nhấn chuông.

Đèn đỏ bật sáng. Còi báo động rú vang.

“Thuyền cứu sinh!” tôi hét lên.

Chúng tôi chạy tới chiếc thuyền gần nhất.

Khi chúng tôi vừa lật được chiếc bạt phủ lên, lũ quái vật và rất đông bảo vệ đang chạy lên boong, đẩy ngã đám du khách và những người phục vụ với các khay đầy các loại thức uống nhiệt đới. Cái gã mặc áo giáo Hy Lạp rút gươm ra và tấn công, nhưng hắn lại bị trượt chân vào vũng nước cocktail pina colada nhỏ. Đám xạ thủ Laistrygonian đã tụ tập trên boong phía trên chúng tôi, tên đã lắp sẵn trong cung.

“Làm thế nào để hạ cái thuyền này xuống?” Annabeth kêu thất thanh.

Một con chó ngao nhảy chồm về phía tôi, nhưng Tyson đã kịp thời quất nó văng sang một bên bằng bình cứu hỏa.

“Vào thuyền!” tôi hét lên. Tôi mở nắp cây Thủy Triều và chém một loạt mũi tên được bắn ra đầu tiên trong không trung. Chúng tôi có thể bị chôn vùi bằng các mũi tên bất cứ khi nào.

Chiếc thuyền cứu sinh đang được treo ngoài mạn tàu, phía trên mặt nước. Annabeth và Tyson không kịp thả ròng rọc.

“Giữ chắc nhé!” tôi hét lên và cắt đứt dây thừng.

Một trận mưa tên bay vèo vèo phía trên đầu chúng tôi khi chúng tôi rơi tự do xuống biển.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện