Hai ngày liền, chúng tôi trên tàu Amtrack chạy thẳng về hướng tây, băng qua bao núi đồi, sông suối và những cánh đồng lúa mì gợn sóng màu hổ phách.
Dù không bị tấn công lần nào, tôi vẫn không thoải mái. Tôi cảm giác cả ba chạy vòng quanh hộp đồ chơi. Nhiều cặp mắt theo dõi chúng tôi từ bên trên và bên dưới, như thể có người đang chờ lúc thuận lợi là ra tay.
Tôi cố gắng ẩn mình, càng ít người thấy càng tốt vì ảnh tôi theo nhiều tờ báo đi khắp miền duyên hải phía đông. Tờ Trenton Register News đăng tấm hình khách du lịch chụp tôi vừa chạy từ xe buýt Greyhound. Tôi không tin ở mắt mình: bóng thanh kiếm Thủy triều mờ mờ, trông như tôi đang cầm gậy vụt bóng chày.
Ghi chú dưới bức hình có nội dung sau:
"Percy Jackson, mười hai tuổi, đang bị cảnh sát truy lùng nhằm làm rõ nguyên nhân mất tích của mẹ cậu bé[15] cách đây hai tuần, lộ diện khi chạy trốn khỏi xe buýt, nơi cậu bé bắt chuyện với mấy cụ già là hành khách trên xe. Jackson vừa xuống, chiếc xe nổ tung trên đường lộ vắng vẻ miền New Jersey. Dựa theo lời kể của nhiều nhân chứng, Jackson có hai kẻ tòng phạm luôn theo sát cậu bé. Ông Gabe Ugliano, bố dượng cậu bé, treo giải thưởng bằng tiền mặt cho ai bắt được cậu bé."
Annabeth trấn an:
"Đừng lo. Cảnh sát người phàm không bắt được chúng ta đâu."[16]
Nhưng nghe giọng nói, tôi biết chính Annabeth cũng không dám chắc.
Suốt ngày hôm đó, tôi như ngồi trên chảo lửa. Nếu không đi tới đi lui hết chiều dài con tàu, tôi lại đứng nhìn cửa kính.
Một lần, tôi thấy cả gia đình nhân mã đeo cung tên săn bữa trưa đang phi nước kiệu qua đồng lúa mì. Thấy tôi nhìn, cậu con trai trạc tuổi học trò lớp hai dính trên mình ngựa con giơ tay vẫy.
Tôi nhìn hành khách trong khoang nhưng hình như không ai thấy. Người lớn đi tàu, thường vùi mặt vào tạp chí hoặc chăm chú ngó màn hình máy tính xách tay.
Lần khác, lúc sẩm tối, có con gì to lớn chạy xuyên cánh rừng ven đường. Tôi tin chắc mình nhìn thấy sư tử, chỉ có điều ở Mỹ không có sư tử. Hơn nữa con này cực kỳ to lớn. Lông nó vàng óng trong ánh hoàng hôn. Lát sau, nó chạy sâu vào rừng cây rậm rạp và biến mất.
Tiền thưởng tìm Gladiola trả cho bọn tôi[17] chỉ đủ mua vé đến Denver. Không thể chơi sang mua vé nằm, bọn tôi đành gà gật trên khoang tàu ngồi. Cổ và gáy tôi tê cứng. Vì Annabeth ngồi ngay bên cạnh, nên tôi cố không nhểu dãi.
Grover vừa ngủ, vừa ngáy, vừa nói mơ khiến tôi thức suốt. Có lần nó đạp mạnh khiến hai bàn chân giả rụng ra. Tôi và Annabeth cuống cuồng hắn lại vì sợ lộ tẩy.
Annabeth xỏ giày vào chân Grover:
- Nói nghe xem, ai nhờ cậy giúp thế? - Sao cậu hỏi vậy?
- Lúc cậu ngủ, cậu nói mơ :"Ta không giúp ngươi đâu." Cậu mơ thấy ai thế?
Tôi không định kể nhưng đã hai lần tôi mơ thấy giọng nói của quỷ dưới vực. Nhưng vì lo quá nên cuối cùng tôi tâm sự hết.
Annabeth im lặng rất lâu.
- Nghe ra thì không phải Hades. Bao giờ ông ta cũng xuất hiện trên ngai vàng màu đen và không bao giờ cười thành tiếng.
- Vật ấy đem mẹ tớ ra trao đổi. Không Hades thì ai vào đây?
- Theo tớ thì... có thể ông ta bảo: "Giúp ta rời Địa ngục", nếu ông ta muốn cư dân đỉnh Olympia tiêu diệt nhau. Nhưng nếu đã có Tia Chớp trong tay, tại sao ông ta đòi cậu giao nó?
Tôi lắc đầu. Giá tôi biết câu trả lời thì hay quá. Tôi nhớ Grover từng bảo hình như ba Nữ Thần Báo Thù đang tìm kiếm thứ gì đó trên xe buýt.
Nó ở đâu? Ở đâu?
Hình như cảm xúc của tôi ảnh hưởng đến Grover. Nó khụt khịt, lẩm bẩm câu gì đó về rau cỏ rồi lật đầu sang bên kia ngủ tiếp.
Annabeth chỉnh mũ, che sừng cho Grover:
- Percy này, chớ đổi chắc với Hades. Chắc cậu thừa biết ông ta xảo trá, nhẫn tâm và tham lam vô độ. Lần này, dù ba "Người Tử Tê" ông ta cử lên trần gian không hung hăng, tớ cũng không mắc lừa...
- Nói thế có nghĩa trước đây cậu gặp họ rồi ư ?
Annabeth chạm tay vào vòng đeo cổ, chỉ năm viên sứ lưu niệm, viên màu trắng có vẽ hình cây thông.
- Cứ cho là tớ không ưa gì thần cai quản địa ngục.Cậu đừng như cá cắn câu, mắc mưu ông ta vì muốn cứu mẹ.
- Giả sử ở địa vị tớ và Hades lấy cha cậu làm mồi nhử, cậu sẽ làm gì?
- Dễ ợt. Tớ mặc ông ấy cho quạ rỉa.
- Nói thật hay đùa đấy ?
Cặp mắt xám nhìn tôi không chớp. Mặt lạnh lùng y như lúc ở trại hè Annabeth rút kiếm định chém con chó địa ngục.
- Cậu không biết chứ cha tớ ghét tớ từ lúc tớ mới lọt lòng mẹ. Ông chưa hề muốn có con bao giờ. Nghe tin có tớ, ông bảo thần Athena mang tớ lên đỉnh Olympia mà nuôi. Ông ấy bận, không chăm sóc được. Nghe vậy mẹ buồn lắm. Mẹ bảo các anh hùng phải do cha hoặc mẹ người phàm nuôi dạy dưới trần.
- Nhưng... mẹ cậu không thể đến nhà bảo sanh, đúng không?
- Thần Gió Tây Zephyr mang nôi vàng trong đó có tớ thả trước cửa nhà cha. Chắc chắn cha tớ phải biết đó là phép màu. Cũng như người phàm chụp ảnh kỹ thuật số vậy. Nhưng lúc nào ông cũng ca thán rằng tớ là mối phiền toái lớn nhất đời ông. Tớ mới lên năm, ông đã cưới vợ khác, quên hẳn mẹ tớ. Có vợ người phàm và hai đứa con hoàn toàn bình thường, ông ta cố giả vờ như không hề có tớ trên đời.
Tôi ngó mông lung ngoài cửa kính. Ánh đèn vàng vọt của thị trấn đang say ngủ trôi dần qua. Tôi muốn an ủi bạn, nhưng không biết ăn nói thế nào.
- Mẹ tớ lấy một gã vô cùng đê tiện. Grover bảo mẹ bảo vệ tớ... bằng cách dùng khung cảnh gia đình phàm trần làm bình phong che chắn cho con. Chắc cha cậu cũng theo cách ấy.
Annabeth mân mê vòng cổ không rời. Cô bé nắm chặt nhẫn vàng đeo cùng năm hạt sứ, loại nhẫn sinh viên tốt nghiệp trường quân sự West Point hay đeo. Tôi đoán chắc nhẫn của cha Annabeth. Nếu giận cha, sao Annabeth còn đeo nó?
- Cha bỏ bê, còn dì ghẻ chê tớ quái đản. Bà ly gián, không cho tớ chơi với em cùng cha khác mẹ. Mỗi khi có tình huống nguy hiểm, chẳng hạn yêu quái tấn công, cả hai đều tức tối dồn mắt vào tớ như muốn nói: "Sao ngươi dám bắt người thân cùng chịu nguy hiểm?" Sau này, tớ hiểu cha và mẹ kế không muốn chứa chấp đứa con bất bình thường. Thế nên, tớ bỏ nhà đi luôn.
- Năm ấy cậu mấy tuổi?
- Bảy tuổi. Cùng năm tớ đến Trại Con Lai.
- Nhưng... cậu không thể đi một mình đến trại hè được.
- Đúng vậy. Chẳng ai làm thế một mình cả. Vì luôn dõi theo con nên mẹ hướng dẫn tớ tìm người giúp. Tớ bất ngờ quen hai người bạn sau này giúp tớ rất nhiều... nhưng mọi chuyện kết thúc quá chóng váng.
Tôi muốn hỏi sau đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hình như Annabeth đắm mình với chuỗi kỷ niệm buồn, quên hết xung quanh. Tôi biết gặng hỏi chỉ làm bạn ấy buồn thêm.
Trong lúc tàu lao nhanh đến Ohio, tôi đành vừa chịu trận tiếng ngáy như kéo gỗ của Grover, vừa ngắm những cánh đồng trải dài tít tắp trong đêm khuya thanh vắng.
Đi tàu hết gần hai ngày, tức cuối ngày mười ba tháng Sáu, tám ngày trước Hạ chí, chúng tôi theo tàu đi qua dãy đồi rợp nắng vàng, qua cầu bắt ngang sông Mississippi, tiến vào địa phậm St.Louis. Annabeth say mê ngắm Gateway Arch, cửa ô xây hình vòm ngay lối vào thành. Tôi thấy nó giống quai túi giấy móc bên hông đô thị sầm uất.
Cô bạn trầm trồ:
- Tớ thích giống họ.
- Cái gì?
- Xây một cái giống thế. Cậu thấy đền Parthenon chưa, Percy?
- Chỉ có trong ảnh thôi.
Annabeth nhìn xa xăm:
- Sẽ có ngày chính mắt tớ thấy công trình vĩ đại như thế. Tớ sẽ xây dựng tượng đài lớn nhất lịch sử cho các thần. Một kỳ quan sau hàng chục thế kỷ vẫn sừng sững giữa trời.
Tôi bật cười:
- Cậu á? Định làm kiến trúc sư à?
Không hiểu sao tôi thấy tức cười. Thật khó hình dung Annabeth ngồi yên cả ngày kẻ kẻ, vẽ vẽ.
Hai má bạn tôi đỏ như quả bồ quân.
- Ừ, kiến trúc sư thì sao nào? Mẹ Annabeth kỳ vọng con mình kiến tạo, không đập phá như cái ông thần chuyên gây động đất kia.
Tôi im lặng nhìn con sông Mississippi chở nặng phù sa, cuồn cuộn nổi sóng.
Annabeth vội nói:
- Xin lỗi. Tớ quá lời.
Tôi năn nỉ:
- Chúng ta hợp tác một chút có được không vậy? Chẳng lẽ cha Poseidon và mẹ Athena chưa từng bắt tay làm chung dự án nào ư?
Annabeth phải bình tâm ngẫm nghĩ mới nhớ ra:
- Chắc có chứ... cỗ xe cho thần mặt trời chẳng hạn. Sáng kiến của mẹ tớ, nhưng thần Poseidon biến sóng biển thành đàn bạch mã kéo xe. Sau đó, họ cùng chung tay hoàn tất nó.
- Vậy nếu muốn, ta làm chung được mà.
Đoàn tàu lao nhanh đến trung tâm thành phố. Annabeth ngắm mãi cho đến khi cửa ô mái vòm khuất sau tòa nhà khách sạn cao ngất.
Mãi sau, bạn ấy mới bảo:
- Ừ.
Tàu dừng trong nhà ga Amtrack tọa lạc giữa lòng thành phố. Loa trên toa thông báo tàu nghỉ hai tiếng trước khi khởi hành đến Denver.
Grover vươn vai. Chưa mở mắt, nó đã kêu:
- Ăn!
Annabeth giục :
- Dậy đi, dê con. Ta đi ngắm cảnh thôi.
- Ngắm gì?
- Gateway Arch. Chắc đây là cơ hội duy nhất leo lên mái cổng vòm của tớ. Cậu có đi không thì nói?
Grover và tôi đưa mắt nhìn nhau.
Tôi định từ chối: "Không đi đâu", nhưng tốt hơn hết chớ nên để Annabeth đi đâu một mình.
Grover nhún vai:
- Miễn là quán ăn ở đó không có yêu quái.
Gateway Arch[18] cách nhà ga vài dãy nhà. Giờ đã là cuối ngày. Dòng người xếp hành lên đỉnh tham quan đã vãn.Chúng tôi băng qua viện bảo tàng dưới lòng đất, xem xe đẩy và thuyền mành của người da đỏ có từ đầu thế kỷ mười bảy. Tuy không thú vị lắm nhưng nghe Annabeth nhiệt tình thuyết minh về tiến trình xây cổng vòm, được Grover liên tục giúi kẹo vào tay nên tôi cũng thấy hay hay.
Tuy nhiên, tôi luôn cảnh giác quan sát đoàn người xếp hàng xem có gì khác thường chăng.
Tôi ghé tai Grover hỏi nhỏ:
- Cậu ngửi thấy gì không?
Nó nhăn mặt bảo:
- Không khí dưới lòng đất luôn có mùi yêu quái. Chắc không có gì đáng ngại đâu.
Nhưng tôi thấy bất an, bụng bảo dạ đáng lẽ cả ba không nên đến đây.
- Này, các cậu biết biểu tượng sức mạnh thần thánh là gì không?
Đang đọc về thiết bị xây dựng dùng xây cổng vòm, Annabeth ngẩng lên hỏi:
- Là gì?
- À, là Hades...
Grover đằng hắng:
- Ta đang ở giữa chốn đông người... cậu vừa nhắc đến ông bạn "dưới lầu" phải không?
- Ừ, tít tận dưới đó. Có phải ông ta cũng có mũ giống mũ Annabeth?
Annabeth đáp:
- À, mũ sắt của thần bóng tối. Phải, biểu tượng quyền uy đấy. Hôm các thần họp cuối năm, tức ngày Đông chí, tớ thấy mũ đặt cạnh ghế của Hades.
- Ông ta cũng đến à?
Annabeth gật đầu:
- Ngày tối trời nhất trong năm, ngày duy nhất Hades lên đỉnh Olympia. Nhưng theo tớ biết, mũ của Hades công năng kỳ diệu hơn mũ tàng hình này nhiều...
Grover công nhận:
- Nhờ nó, Hades tan vào bóng tối, đi xuyên tường. Không ai chạm tới, nhìn hoặc nghe tiếng ông ta. Đồng thời, Hades biết cách gây nên cơn hoảng loạn ghê gớm đến mức làm người ta phát điên hoặc đứng tim. Thử nghĩ xem, sao có người cực kỳ duy lý vẫn sợ bóng tối?
- Nhưng... giả sử lúc này ông ta đội mũ tàng hình có mặt ngay đây, sao ta biết được?
Annabeth và Grover lo lắng nhìn nhau:
- Không ai biết cả.
- Chà, đa tạ. Giờ tớ ăn không ngon ngủ không yên rồi đây. Còn kẹo dẻo không?
Vừa thấy thang máy bé xíu chạy lên đỉnh mái vòm, tôi giật thót mình. Linh tính mách bảo tôi sắp gay go to. Tôi ghét không gian hẹp lắm. Nếu bị ép vào đó, đầu óc tôi sẽ bấn loạn mất.
Chúng tôi bị nhồi vào thang máy có sẵn bà béo ục ịch dắt con chó dữ giống Chihuahua, đeo cổ gắn kim cương giả. Tôi tưởng ở đây cấm chó nhưng khổ nỗi thấy nó, không nhân viên nào kêu ca một tiếng.
Chúng tôi bắt đầu đi lên. Chưa bao giờ đi thang máy theo đường vòng cung thế này nên tôi hơi buồn nôn.
Bà béo hỏi trống không:
- Bố mẹ không đi cùng à?
Mắt bà ta tròn xoe, răng nhọn và đen như nghiện cà phê. Bà này đội mũ vải jeans, mặc váy may cùng chất liệu chật cứng, ngấn thịt nổi từng cuộn khiến bà ta trông giống quả khinh khí cầu bọc vải.
Annabeth đáp:
- Họ ở dưới. Sợ độ cao mà.
- Ôi,tội nghiệp chưa.
Chú khuyển Chihuahua gầm gừ. Bà chủ nhắc:
- Thôi nào Sonny, ngoan nào.
Mắt chó tròn xoe như mắt chủ: vừa hằn học, vừa như nhìn thấu mọi vật.
Tôi hỏi:
- Tên nó là Sonny ư?
- Không.
Đáp xong, bà ta cười như thể tôi có nghĩa vụ hiểu cho tường tận. Lên đỉnh mái vòm, gian nhà dành cho khách tham quan đứng ngắm cảnh gọi cho tôi hình ảnh trại giam bé xíu trải thảm đỏ. Bên tường này là dãy cửa sổ tí tẹo nhìn xuống thành phố. Cửa sổ tường bên kia nhìn xuống sông.
Tuy phong cảnh đẹp nhưng với tôi, thứ đáng ghét hơn không gian hẹp là một không gian đã hẹp còn lơ lửng giữa trời, cách mặt đất gần ba trăm thước. Tôi chỉ muốn về ngay.
Kéo Annabeth và Grover ra cửa, đẩy hai đứa vào xe điện, tôi định chui vào cùng nhưng phát hiện trong xe có sẵn hai người khác. Không còn chỗ cho tôi nữa rồi.
Bảo vệ nhắc:
- Cậu này đi xe sau.
Annabeth kêu lên:
- Vậy tụi tôi cũng ra. Chúng tớ cùng đợi với cậu.
Biết làm thế phiền mọi người và tốn thời gian, tôi bảo:
- Không cần đâu. Đợi tớ ở dưới được rồi.
Cả Grover và Annabeth đều lo lắng, nhưng họ đành buông tay để cánh cửa xe xập lại.
Xe điện mất hút dưới bờ dốc.
Giờ trên khu ngắm cảnh chỉ còn tôi, một cậu bé đi chung với bố mẹ, nhân viên an ninh và bà béo dắt chú khuyển Chihuahua.
Tôi ngượng ngập cười xã giao với bà béo. Lúc bà ta cười đáp lễ, đầu lưỡi chẻ đôi lấp ló sau hai hàm răng.
Gượm đã.
Lưỡi bà ta chẻ đôi.
Trước khi tôi kịp kiểm tra lại xem mình có nhìn lầm chăng, con chó dữ đã nhảy xổ về phía tôi sủa ông ổng.
Bà béo vỗ về nó:
- Chưa đâu, cưng. Giờ chưa phải lúc. Người vô can còn đứng ở đây mà.
Cậu bé kêu lên:
- Chó! Chó kìa.
Bố mẹ cậu bèn kéo con lùi lại.
Con Chihuahua nhe nanh dọa tôi, bọt mép trào ra, dính đầy đôi môi thâm xì.
Bà béo thở dài:
- Thôi được rồi, con trai. Mày thích thì tao chiều.
Tôi lạnh cả người:
- Bà vừa gọi con Chihuahua này là con trai ư?
Bà ta sửa gáy:
- Chimera[19], không phải Chihuahua. Dễ nhầm quá phải không?
Mụ ta xắn tay áo, để lộ cẳng tay đóng vảy xanh lè. Lúc mụ cười, răng biến thành nanh hết. Hai tròng mắt mụ chạy sang hai bên thái dương, giống mắt bò sát.
Con chó sủa to hơn. Sau mỗi tiếng sủa, nó phình to ra. Lúc đầu to bằng người, sau to bằng sư tử. Tiếng sủa lớn như hổ rống.
Cậu bé hét lên. Bố mẹ cậu lôi tuột con ra cửa, thẳng tới chỗ nhân viên an ninh đang đứng chết sững, kinh hoàng nhìn quái thú. Con Chimera cao đến độ lưng nó chạm nóc nhà.
Quái thú đầu sư tử có bờm bết máu khô, mình và bốn chân móng guốc như dê, đuôi là con rắn độc ngoe nguẩy. Con rắn to như con trăn dài ba thước vươn dài từ sau cặp mông lông lá. Vòng cổ đính kim cương giả vẫn trên cổ nó, bảng tên ghi rõ: "CHIMERA, HUNG DỮ, KHẠC RA LỬA, RĂNG CÓ NỌC ĐỘC. NẾU AI TÌM THẤY XIN GỌI ĐẾN TARTARUS, số nội bộ 954."
Tôi nhận ra tôi chưa mở nắp cây kiếm. Hai bàn tay tê dại. Chỉ cách bụng dính máu khô của Chimera mười bước chân, tôi biết nếu thấy động nó sẽ lao ngay đến.
Bà rắn cười phì phì như tiếng hổ mang bành.
- Percy Jackson, hẳn ngươi tự hào lắm. Hiếm khi Dớt cho phép ta mang con trai ta đi tỉ thí với anh hùng. Nhớ lấy. Ta là phù thuỷ Echidna, mẹ của bầy quái thú.
Tôi trố mắt nhìn mụ,buột miệng:
- Tưởng Echidna là thú ăn kiến chứ?
Mụ rống lên, mặt tím bầm giận dữ:
- Hễ nghe nói vậy, ta bừng bừng lửa hận. Ta ghét dân châu Úc, đem tên ta đặt cho loài cầm thú quái dị đó. Ngươi dám xúc phạm ta, con trai ta sẽ xé xác ngươi.
Chimera xông tới, nhe hàm răng sư tử nhọn hoắt. Tôi nhanh nhẹn nhảy sang bên tránh cú đớp khủng khiếp.
Cú nhảy đưa tôi đến cạnh gia đình cậu bé và nhân viên an ninh. Bốn người họ đều kêu cứu inh ỏi, cố mở cửa lối thoát hiểm.
Tôi không thể khoanh tay nhìn họ bị hại.
Mở nắp bút, tôi chạy sang mé bên kia phòng, miệng hét tướng;
- Này, Chihuahua!
Quái thú Chimera quay ngoắt, nhanh hơn tôi tưởng.
Trước khi tôi kịp vung kiếm, nó há hoác miệng. Sau hơi thở khét lẹt mùi thịt cháy như khói từ lò nướng thịt khổng lồ, một luồng lửa đỏ phụt thẳng vào tôi.
Tôi nằm bẹp xuống tránh. Kế đến là khói mù mịt, thảm bốc cháy và hơi nóng thiêu rụi lông mày tôi.
Ngay chỗ tôi đứng khi nãy là lỗ hổng toang toác bên sườn cổng vòm. Khói từ kim loại nóng chảy bốc quanh miệng hố.
Tôi nhủ thầm: "Chết thật. Mình vừa góp tay phóng hỏa công trình tầm cỡ quốc gia."
Kiếm Thủy triều hiện nguyên hình trên tay tôi. Chờ Chimera quay lại, tôi nhắm cổ nó đâm lên.
Thật là sai lầm chết người.
Lưỡi kiếm đâm trúng vòng cổ,toé lửa. Con vật không hề hấn gì. Tôi loạng choạng cố đứng vững. Nhưng mải tránh miệng sư tử hung hăng, tôi mất cảnh giác với đuôi rắn. Con rắn độc vút đến, cắn phập nanh vào bắp chân tôi.
Toàn thân tôi như có lửa thiêu. Tôi cố đâm mũi kiếm vào miệng Chimera nhưng bị đuôi rắn quấn quanh cổ chân, lôi tôi ngã nhào. Kiếm tuột khỏi tay văng đến lỗ thủng khi nãy và rơi xuống dòng Mississippi.
Cố đứng dậy được như tôi biết mình thua. Tôi không có vũ khí trong lúc nọc rắn theo máu chạy lên tận ngực.
Tôi nhớ bác Chiron bảo kiếm luôn quay về với chủ nhưng túi tôi hiện giờ không có bút. Có lẽ nó rơi quá xa. Có lẽ nó chỉ trở về dưới dạng bút thường. Tôi không biết về nó, chỉ biết tôi không còn sống đến lúc đoán ra.
Tôi lùi trở lại lỗ thủng. Chimera gầm gừ tiến đến, miệng thở khói cuồn cuộn.
Phủ thủy rắn Echidna đắc thắng:
- Thời nay anh hùng sao bì được thời xưa, phải không con trai?
Quái thú tru lên. Thấy tôi tơi tả, nó nóng lòng muốn kết liễu tôi cho xong. Liếc nhìn nhân viên an ninh và gia đình cậu bé, tôi thấy cậu ta núp sau chân bố.
Tôi phải bảo vệ họ, chết bây giờ... không phải lúc!
Tôi cố nghĩ cách nhưng toàn thân nóng rực. Đầu óc quay cuồng.
Tôi không có gươm. Trước mặt tôi là quái thú khạc ra lửa và phù thuỷ mẹ nó. Còn tôi đang run sợ.
Không còn chỗ để lùi thêm nữa, tôi đã tiến sát miệng hố. Tít phía dưới kia là dòng sông lóng lánh ánh bạc.
Nếu tôi chết, mẹ con quái thú có bỏ đi không? Chúng có tha những người vô tội kia không?
Echidna rít lên:
- Nếu đúng con thần Poseidon, ngươi đâu sợ nước. Ta thách ngươi nhảy xuống sông đấy. Nếu không chứng minh được nước không làm hại ngươi, ngươi chẳng là cái thá gì cả. Nhảy xuống vớt gươm lên xem nào. Thế mà cứ huênh hoang ta đây con dòng cháu giống.
Tôi nghĩ thầm: "Đúng rồi."
Tôi nhớ có sách dạy rằng nhảy từ trên cao, khoảng cách bằng toà nhà hai tầng xuống nước, giống như lao thẳng xuống nền nhựa đường. Còn từ độ cao này, da thịt tôi sẽ nát nhừ.
Miệng con Chimera đỏ rực, chuẩn bị khạc lửa.
Mụ Echidna bảo tôi:
- Ngươi không có lòng tin. Không tin tưởng các thần trên trời. Ta không trách nhóc con hèn nhát. Ngươi có sống cũng chẳng làm nên trò trống gì. Thần thánh không giúp gì được ngươi. Nọc độc sắp chạy vào tim rồi.
Mụ nói không sai. Tôi sắp chết rồi, hơi thở yếu dần.
Không ai cứu nổi tôi, kể cả các thần trên đỉnh Olympia.
Tôi lùi tiếp và quan sát dòng sông bên dưới.
Tôi nhớ vầng hào quang ấm áp từ nụ cười của cha. Chắc chắn ông đã nhìn mặt tôi. Lúc tôi còn nằm nôi, cha đã ghé thăm tôi rồi.
Tôi nhớ cây đinh ba quay tròn trên đầu đêm hội cướp cờ, dấu hiện cho thấy thần Poseidon đã nhận con.
Nhưng dưới kia không phải biển, chỉ là sông Mississippi nằm giữa địa phận Hoa Kỳ. Thần biển không có ở đó.
- Kẻ mất lòng tin như ngươi đáng chết.
Echidna lải nhải, Chimera khạc cột lửa thẳng tới mặt tôi.
Tôi cầu xin:
- Cha ơi, cứu con.
Tôi quay người lao xuống sông trong lúc quần áo bắt lửa và độc tố theo máu đi khắp cơ thể.
Dù không bị tấn công lần nào, tôi vẫn không thoải mái. Tôi cảm giác cả ba chạy vòng quanh hộp đồ chơi. Nhiều cặp mắt theo dõi chúng tôi từ bên trên và bên dưới, như thể có người đang chờ lúc thuận lợi là ra tay.
Tôi cố gắng ẩn mình, càng ít người thấy càng tốt vì ảnh tôi theo nhiều tờ báo đi khắp miền duyên hải phía đông. Tờ Trenton Register News đăng tấm hình khách du lịch chụp tôi vừa chạy từ xe buýt Greyhound. Tôi không tin ở mắt mình: bóng thanh kiếm Thủy triều mờ mờ, trông như tôi đang cầm gậy vụt bóng chày.
Ghi chú dưới bức hình có nội dung sau:
"Percy Jackson, mười hai tuổi, đang bị cảnh sát truy lùng nhằm làm rõ nguyên nhân mất tích của mẹ cậu bé[15] cách đây hai tuần, lộ diện khi chạy trốn khỏi xe buýt, nơi cậu bé bắt chuyện với mấy cụ già là hành khách trên xe. Jackson vừa xuống, chiếc xe nổ tung trên đường lộ vắng vẻ miền New Jersey. Dựa theo lời kể của nhiều nhân chứng, Jackson có hai kẻ tòng phạm luôn theo sát cậu bé. Ông Gabe Ugliano, bố dượng cậu bé, treo giải thưởng bằng tiền mặt cho ai bắt được cậu bé."
Annabeth trấn an:
"Đừng lo. Cảnh sát người phàm không bắt được chúng ta đâu."[16]
Nhưng nghe giọng nói, tôi biết chính Annabeth cũng không dám chắc.
Suốt ngày hôm đó, tôi như ngồi trên chảo lửa. Nếu không đi tới đi lui hết chiều dài con tàu, tôi lại đứng nhìn cửa kính.
Một lần, tôi thấy cả gia đình nhân mã đeo cung tên săn bữa trưa đang phi nước kiệu qua đồng lúa mì. Thấy tôi nhìn, cậu con trai trạc tuổi học trò lớp hai dính trên mình ngựa con giơ tay vẫy.
Tôi nhìn hành khách trong khoang nhưng hình như không ai thấy. Người lớn đi tàu, thường vùi mặt vào tạp chí hoặc chăm chú ngó màn hình máy tính xách tay.
Lần khác, lúc sẩm tối, có con gì to lớn chạy xuyên cánh rừng ven đường. Tôi tin chắc mình nhìn thấy sư tử, chỉ có điều ở Mỹ không có sư tử. Hơn nữa con này cực kỳ to lớn. Lông nó vàng óng trong ánh hoàng hôn. Lát sau, nó chạy sâu vào rừng cây rậm rạp và biến mất.
Tiền thưởng tìm Gladiola trả cho bọn tôi[17] chỉ đủ mua vé đến Denver. Không thể chơi sang mua vé nằm, bọn tôi đành gà gật trên khoang tàu ngồi. Cổ và gáy tôi tê cứng. Vì Annabeth ngồi ngay bên cạnh, nên tôi cố không nhểu dãi.
Grover vừa ngủ, vừa ngáy, vừa nói mơ khiến tôi thức suốt. Có lần nó đạp mạnh khiến hai bàn chân giả rụng ra. Tôi và Annabeth cuống cuồng hắn lại vì sợ lộ tẩy.
Annabeth xỏ giày vào chân Grover:
- Nói nghe xem, ai nhờ cậy giúp thế? - Sao cậu hỏi vậy?
- Lúc cậu ngủ, cậu nói mơ :"Ta không giúp ngươi đâu." Cậu mơ thấy ai thế?
Tôi không định kể nhưng đã hai lần tôi mơ thấy giọng nói của quỷ dưới vực. Nhưng vì lo quá nên cuối cùng tôi tâm sự hết.
Annabeth im lặng rất lâu.
- Nghe ra thì không phải Hades. Bao giờ ông ta cũng xuất hiện trên ngai vàng màu đen và không bao giờ cười thành tiếng.
- Vật ấy đem mẹ tớ ra trao đổi. Không Hades thì ai vào đây?
- Theo tớ thì... có thể ông ta bảo: "Giúp ta rời Địa ngục", nếu ông ta muốn cư dân đỉnh Olympia tiêu diệt nhau. Nhưng nếu đã có Tia Chớp trong tay, tại sao ông ta đòi cậu giao nó?
Tôi lắc đầu. Giá tôi biết câu trả lời thì hay quá. Tôi nhớ Grover từng bảo hình như ba Nữ Thần Báo Thù đang tìm kiếm thứ gì đó trên xe buýt.
Nó ở đâu? Ở đâu?
Hình như cảm xúc của tôi ảnh hưởng đến Grover. Nó khụt khịt, lẩm bẩm câu gì đó về rau cỏ rồi lật đầu sang bên kia ngủ tiếp.
Annabeth chỉnh mũ, che sừng cho Grover:
- Percy này, chớ đổi chắc với Hades. Chắc cậu thừa biết ông ta xảo trá, nhẫn tâm và tham lam vô độ. Lần này, dù ba "Người Tử Tê" ông ta cử lên trần gian không hung hăng, tớ cũng không mắc lừa...
- Nói thế có nghĩa trước đây cậu gặp họ rồi ư ?
Annabeth chạm tay vào vòng đeo cổ, chỉ năm viên sứ lưu niệm, viên màu trắng có vẽ hình cây thông.
- Cứ cho là tớ không ưa gì thần cai quản địa ngục.Cậu đừng như cá cắn câu, mắc mưu ông ta vì muốn cứu mẹ.
- Giả sử ở địa vị tớ và Hades lấy cha cậu làm mồi nhử, cậu sẽ làm gì?
- Dễ ợt. Tớ mặc ông ấy cho quạ rỉa.
- Nói thật hay đùa đấy ?
Cặp mắt xám nhìn tôi không chớp. Mặt lạnh lùng y như lúc ở trại hè Annabeth rút kiếm định chém con chó địa ngục.
- Cậu không biết chứ cha tớ ghét tớ từ lúc tớ mới lọt lòng mẹ. Ông chưa hề muốn có con bao giờ. Nghe tin có tớ, ông bảo thần Athena mang tớ lên đỉnh Olympia mà nuôi. Ông ấy bận, không chăm sóc được. Nghe vậy mẹ buồn lắm. Mẹ bảo các anh hùng phải do cha hoặc mẹ người phàm nuôi dạy dưới trần.
- Nhưng... mẹ cậu không thể đến nhà bảo sanh, đúng không?
- Thần Gió Tây Zephyr mang nôi vàng trong đó có tớ thả trước cửa nhà cha. Chắc chắn cha tớ phải biết đó là phép màu. Cũng như người phàm chụp ảnh kỹ thuật số vậy. Nhưng lúc nào ông cũng ca thán rằng tớ là mối phiền toái lớn nhất đời ông. Tớ mới lên năm, ông đã cưới vợ khác, quên hẳn mẹ tớ. Có vợ người phàm và hai đứa con hoàn toàn bình thường, ông ta cố giả vờ như không hề có tớ trên đời.
Tôi ngó mông lung ngoài cửa kính. Ánh đèn vàng vọt của thị trấn đang say ngủ trôi dần qua. Tôi muốn an ủi bạn, nhưng không biết ăn nói thế nào.
- Mẹ tớ lấy một gã vô cùng đê tiện. Grover bảo mẹ bảo vệ tớ... bằng cách dùng khung cảnh gia đình phàm trần làm bình phong che chắn cho con. Chắc cha cậu cũng theo cách ấy.
Annabeth mân mê vòng cổ không rời. Cô bé nắm chặt nhẫn vàng đeo cùng năm hạt sứ, loại nhẫn sinh viên tốt nghiệp trường quân sự West Point hay đeo. Tôi đoán chắc nhẫn của cha Annabeth. Nếu giận cha, sao Annabeth còn đeo nó?
- Cha bỏ bê, còn dì ghẻ chê tớ quái đản. Bà ly gián, không cho tớ chơi với em cùng cha khác mẹ. Mỗi khi có tình huống nguy hiểm, chẳng hạn yêu quái tấn công, cả hai đều tức tối dồn mắt vào tớ như muốn nói: "Sao ngươi dám bắt người thân cùng chịu nguy hiểm?" Sau này, tớ hiểu cha và mẹ kế không muốn chứa chấp đứa con bất bình thường. Thế nên, tớ bỏ nhà đi luôn.
- Năm ấy cậu mấy tuổi?
- Bảy tuổi. Cùng năm tớ đến Trại Con Lai.
- Nhưng... cậu không thể đi một mình đến trại hè được.
- Đúng vậy. Chẳng ai làm thế một mình cả. Vì luôn dõi theo con nên mẹ hướng dẫn tớ tìm người giúp. Tớ bất ngờ quen hai người bạn sau này giúp tớ rất nhiều... nhưng mọi chuyện kết thúc quá chóng váng.
Tôi muốn hỏi sau đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hình như Annabeth đắm mình với chuỗi kỷ niệm buồn, quên hết xung quanh. Tôi biết gặng hỏi chỉ làm bạn ấy buồn thêm.
Trong lúc tàu lao nhanh đến Ohio, tôi đành vừa chịu trận tiếng ngáy như kéo gỗ của Grover, vừa ngắm những cánh đồng trải dài tít tắp trong đêm khuya thanh vắng.
Đi tàu hết gần hai ngày, tức cuối ngày mười ba tháng Sáu, tám ngày trước Hạ chí, chúng tôi theo tàu đi qua dãy đồi rợp nắng vàng, qua cầu bắt ngang sông Mississippi, tiến vào địa phậm St.Louis. Annabeth say mê ngắm Gateway Arch, cửa ô xây hình vòm ngay lối vào thành. Tôi thấy nó giống quai túi giấy móc bên hông đô thị sầm uất.
Cô bạn trầm trồ:
- Tớ thích giống họ.
- Cái gì?
- Xây một cái giống thế. Cậu thấy đền Parthenon chưa, Percy?
- Chỉ có trong ảnh thôi.
Annabeth nhìn xa xăm:
- Sẽ có ngày chính mắt tớ thấy công trình vĩ đại như thế. Tớ sẽ xây dựng tượng đài lớn nhất lịch sử cho các thần. Một kỳ quan sau hàng chục thế kỷ vẫn sừng sững giữa trời.
Tôi bật cười:
- Cậu á? Định làm kiến trúc sư à?
Không hiểu sao tôi thấy tức cười. Thật khó hình dung Annabeth ngồi yên cả ngày kẻ kẻ, vẽ vẽ.
Hai má bạn tôi đỏ như quả bồ quân.
- Ừ, kiến trúc sư thì sao nào? Mẹ Annabeth kỳ vọng con mình kiến tạo, không đập phá như cái ông thần chuyên gây động đất kia.
Tôi im lặng nhìn con sông Mississippi chở nặng phù sa, cuồn cuộn nổi sóng.
Annabeth vội nói:
- Xin lỗi. Tớ quá lời.
Tôi năn nỉ:
- Chúng ta hợp tác một chút có được không vậy? Chẳng lẽ cha Poseidon và mẹ Athena chưa từng bắt tay làm chung dự án nào ư?
Annabeth phải bình tâm ngẫm nghĩ mới nhớ ra:
- Chắc có chứ... cỗ xe cho thần mặt trời chẳng hạn. Sáng kiến của mẹ tớ, nhưng thần Poseidon biến sóng biển thành đàn bạch mã kéo xe. Sau đó, họ cùng chung tay hoàn tất nó.
- Vậy nếu muốn, ta làm chung được mà.
Đoàn tàu lao nhanh đến trung tâm thành phố. Annabeth ngắm mãi cho đến khi cửa ô mái vòm khuất sau tòa nhà khách sạn cao ngất.
Mãi sau, bạn ấy mới bảo:
- Ừ.
Tàu dừng trong nhà ga Amtrack tọa lạc giữa lòng thành phố. Loa trên toa thông báo tàu nghỉ hai tiếng trước khi khởi hành đến Denver.
Grover vươn vai. Chưa mở mắt, nó đã kêu:
- Ăn!
Annabeth giục :
- Dậy đi, dê con. Ta đi ngắm cảnh thôi.
- Ngắm gì?
- Gateway Arch. Chắc đây là cơ hội duy nhất leo lên mái cổng vòm của tớ. Cậu có đi không thì nói?
Grover và tôi đưa mắt nhìn nhau.
Tôi định từ chối: "Không đi đâu", nhưng tốt hơn hết chớ nên để Annabeth đi đâu một mình.
Grover nhún vai:
- Miễn là quán ăn ở đó không có yêu quái.
Gateway Arch[18] cách nhà ga vài dãy nhà. Giờ đã là cuối ngày. Dòng người xếp hành lên đỉnh tham quan đã vãn.Chúng tôi băng qua viện bảo tàng dưới lòng đất, xem xe đẩy và thuyền mành của người da đỏ có từ đầu thế kỷ mười bảy. Tuy không thú vị lắm nhưng nghe Annabeth nhiệt tình thuyết minh về tiến trình xây cổng vòm, được Grover liên tục giúi kẹo vào tay nên tôi cũng thấy hay hay.
Tuy nhiên, tôi luôn cảnh giác quan sát đoàn người xếp hàng xem có gì khác thường chăng.
Tôi ghé tai Grover hỏi nhỏ:
- Cậu ngửi thấy gì không?
Nó nhăn mặt bảo:
- Không khí dưới lòng đất luôn có mùi yêu quái. Chắc không có gì đáng ngại đâu.
Nhưng tôi thấy bất an, bụng bảo dạ đáng lẽ cả ba không nên đến đây.
- Này, các cậu biết biểu tượng sức mạnh thần thánh là gì không?
Đang đọc về thiết bị xây dựng dùng xây cổng vòm, Annabeth ngẩng lên hỏi:
- Là gì?
- À, là Hades...
Grover đằng hắng:
- Ta đang ở giữa chốn đông người... cậu vừa nhắc đến ông bạn "dưới lầu" phải không?
- Ừ, tít tận dưới đó. Có phải ông ta cũng có mũ giống mũ Annabeth?
Annabeth đáp:
- À, mũ sắt của thần bóng tối. Phải, biểu tượng quyền uy đấy. Hôm các thần họp cuối năm, tức ngày Đông chí, tớ thấy mũ đặt cạnh ghế của Hades.
- Ông ta cũng đến à?
Annabeth gật đầu:
- Ngày tối trời nhất trong năm, ngày duy nhất Hades lên đỉnh Olympia. Nhưng theo tớ biết, mũ của Hades công năng kỳ diệu hơn mũ tàng hình này nhiều...
Grover công nhận:
- Nhờ nó, Hades tan vào bóng tối, đi xuyên tường. Không ai chạm tới, nhìn hoặc nghe tiếng ông ta. Đồng thời, Hades biết cách gây nên cơn hoảng loạn ghê gớm đến mức làm người ta phát điên hoặc đứng tim. Thử nghĩ xem, sao có người cực kỳ duy lý vẫn sợ bóng tối?
- Nhưng... giả sử lúc này ông ta đội mũ tàng hình có mặt ngay đây, sao ta biết được?
Annabeth và Grover lo lắng nhìn nhau:
- Không ai biết cả.
- Chà, đa tạ. Giờ tớ ăn không ngon ngủ không yên rồi đây. Còn kẹo dẻo không?
Vừa thấy thang máy bé xíu chạy lên đỉnh mái vòm, tôi giật thót mình. Linh tính mách bảo tôi sắp gay go to. Tôi ghét không gian hẹp lắm. Nếu bị ép vào đó, đầu óc tôi sẽ bấn loạn mất.
Chúng tôi bị nhồi vào thang máy có sẵn bà béo ục ịch dắt con chó dữ giống Chihuahua, đeo cổ gắn kim cương giả. Tôi tưởng ở đây cấm chó nhưng khổ nỗi thấy nó, không nhân viên nào kêu ca một tiếng.
Chúng tôi bắt đầu đi lên. Chưa bao giờ đi thang máy theo đường vòng cung thế này nên tôi hơi buồn nôn.
Bà béo hỏi trống không:
- Bố mẹ không đi cùng à?
Mắt bà ta tròn xoe, răng nhọn và đen như nghiện cà phê. Bà này đội mũ vải jeans, mặc váy may cùng chất liệu chật cứng, ngấn thịt nổi từng cuộn khiến bà ta trông giống quả khinh khí cầu bọc vải.
Annabeth đáp:
- Họ ở dưới. Sợ độ cao mà.
- Ôi,tội nghiệp chưa.
Chú khuyển Chihuahua gầm gừ. Bà chủ nhắc:
- Thôi nào Sonny, ngoan nào.
Mắt chó tròn xoe như mắt chủ: vừa hằn học, vừa như nhìn thấu mọi vật.
Tôi hỏi:
- Tên nó là Sonny ư?
- Không.
Đáp xong, bà ta cười như thể tôi có nghĩa vụ hiểu cho tường tận. Lên đỉnh mái vòm, gian nhà dành cho khách tham quan đứng ngắm cảnh gọi cho tôi hình ảnh trại giam bé xíu trải thảm đỏ. Bên tường này là dãy cửa sổ tí tẹo nhìn xuống thành phố. Cửa sổ tường bên kia nhìn xuống sông.
Tuy phong cảnh đẹp nhưng với tôi, thứ đáng ghét hơn không gian hẹp là một không gian đã hẹp còn lơ lửng giữa trời, cách mặt đất gần ba trăm thước. Tôi chỉ muốn về ngay.
Kéo Annabeth và Grover ra cửa, đẩy hai đứa vào xe điện, tôi định chui vào cùng nhưng phát hiện trong xe có sẵn hai người khác. Không còn chỗ cho tôi nữa rồi.
Bảo vệ nhắc:
- Cậu này đi xe sau.
Annabeth kêu lên:
- Vậy tụi tôi cũng ra. Chúng tớ cùng đợi với cậu.
Biết làm thế phiền mọi người và tốn thời gian, tôi bảo:
- Không cần đâu. Đợi tớ ở dưới được rồi.
Cả Grover và Annabeth đều lo lắng, nhưng họ đành buông tay để cánh cửa xe xập lại.
Xe điện mất hút dưới bờ dốc.
Giờ trên khu ngắm cảnh chỉ còn tôi, một cậu bé đi chung với bố mẹ, nhân viên an ninh và bà béo dắt chú khuyển Chihuahua.
Tôi ngượng ngập cười xã giao với bà béo. Lúc bà ta cười đáp lễ, đầu lưỡi chẻ đôi lấp ló sau hai hàm răng.
Gượm đã.
Lưỡi bà ta chẻ đôi.
Trước khi tôi kịp kiểm tra lại xem mình có nhìn lầm chăng, con chó dữ đã nhảy xổ về phía tôi sủa ông ổng.
Bà béo vỗ về nó:
- Chưa đâu, cưng. Giờ chưa phải lúc. Người vô can còn đứng ở đây mà.
Cậu bé kêu lên:
- Chó! Chó kìa.
Bố mẹ cậu bèn kéo con lùi lại.
Con Chihuahua nhe nanh dọa tôi, bọt mép trào ra, dính đầy đôi môi thâm xì.
Bà béo thở dài:
- Thôi được rồi, con trai. Mày thích thì tao chiều.
Tôi lạnh cả người:
- Bà vừa gọi con Chihuahua này là con trai ư?
Bà ta sửa gáy:
- Chimera[19], không phải Chihuahua. Dễ nhầm quá phải không?
Mụ ta xắn tay áo, để lộ cẳng tay đóng vảy xanh lè. Lúc mụ cười, răng biến thành nanh hết. Hai tròng mắt mụ chạy sang hai bên thái dương, giống mắt bò sát.
Con chó sủa to hơn. Sau mỗi tiếng sủa, nó phình to ra. Lúc đầu to bằng người, sau to bằng sư tử. Tiếng sủa lớn như hổ rống.
Cậu bé hét lên. Bố mẹ cậu lôi tuột con ra cửa, thẳng tới chỗ nhân viên an ninh đang đứng chết sững, kinh hoàng nhìn quái thú. Con Chimera cao đến độ lưng nó chạm nóc nhà.
Quái thú đầu sư tử có bờm bết máu khô, mình và bốn chân móng guốc như dê, đuôi là con rắn độc ngoe nguẩy. Con rắn to như con trăn dài ba thước vươn dài từ sau cặp mông lông lá. Vòng cổ đính kim cương giả vẫn trên cổ nó, bảng tên ghi rõ: "CHIMERA, HUNG DỮ, KHẠC RA LỬA, RĂNG CÓ NỌC ĐỘC. NẾU AI TÌM THẤY XIN GỌI ĐẾN TARTARUS, số nội bộ 954."
Tôi nhận ra tôi chưa mở nắp cây kiếm. Hai bàn tay tê dại. Chỉ cách bụng dính máu khô của Chimera mười bước chân, tôi biết nếu thấy động nó sẽ lao ngay đến.
Bà rắn cười phì phì như tiếng hổ mang bành.
- Percy Jackson, hẳn ngươi tự hào lắm. Hiếm khi Dớt cho phép ta mang con trai ta đi tỉ thí với anh hùng. Nhớ lấy. Ta là phù thuỷ Echidna, mẹ của bầy quái thú.
Tôi trố mắt nhìn mụ,buột miệng:
- Tưởng Echidna là thú ăn kiến chứ?
Mụ rống lên, mặt tím bầm giận dữ:
- Hễ nghe nói vậy, ta bừng bừng lửa hận. Ta ghét dân châu Úc, đem tên ta đặt cho loài cầm thú quái dị đó. Ngươi dám xúc phạm ta, con trai ta sẽ xé xác ngươi.
Chimera xông tới, nhe hàm răng sư tử nhọn hoắt. Tôi nhanh nhẹn nhảy sang bên tránh cú đớp khủng khiếp.
Cú nhảy đưa tôi đến cạnh gia đình cậu bé và nhân viên an ninh. Bốn người họ đều kêu cứu inh ỏi, cố mở cửa lối thoát hiểm.
Tôi không thể khoanh tay nhìn họ bị hại.
Mở nắp bút, tôi chạy sang mé bên kia phòng, miệng hét tướng;
- Này, Chihuahua!
Quái thú Chimera quay ngoắt, nhanh hơn tôi tưởng.
Trước khi tôi kịp vung kiếm, nó há hoác miệng. Sau hơi thở khét lẹt mùi thịt cháy như khói từ lò nướng thịt khổng lồ, một luồng lửa đỏ phụt thẳng vào tôi.
Tôi nằm bẹp xuống tránh. Kế đến là khói mù mịt, thảm bốc cháy và hơi nóng thiêu rụi lông mày tôi.
Ngay chỗ tôi đứng khi nãy là lỗ hổng toang toác bên sườn cổng vòm. Khói từ kim loại nóng chảy bốc quanh miệng hố.
Tôi nhủ thầm: "Chết thật. Mình vừa góp tay phóng hỏa công trình tầm cỡ quốc gia."
Kiếm Thủy triều hiện nguyên hình trên tay tôi. Chờ Chimera quay lại, tôi nhắm cổ nó đâm lên.
Thật là sai lầm chết người.
Lưỡi kiếm đâm trúng vòng cổ,toé lửa. Con vật không hề hấn gì. Tôi loạng choạng cố đứng vững. Nhưng mải tránh miệng sư tử hung hăng, tôi mất cảnh giác với đuôi rắn. Con rắn độc vút đến, cắn phập nanh vào bắp chân tôi.
Toàn thân tôi như có lửa thiêu. Tôi cố đâm mũi kiếm vào miệng Chimera nhưng bị đuôi rắn quấn quanh cổ chân, lôi tôi ngã nhào. Kiếm tuột khỏi tay văng đến lỗ thủng khi nãy và rơi xuống dòng Mississippi.
Cố đứng dậy được như tôi biết mình thua. Tôi không có vũ khí trong lúc nọc rắn theo máu chạy lên tận ngực.
Tôi nhớ bác Chiron bảo kiếm luôn quay về với chủ nhưng túi tôi hiện giờ không có bút. Có lẽ nó rơi quá xa. Có lẽ nó chỉ trở về dưới dạng bút thường. Tôi không biết về nó, chỉ biết tôi không còn sống đến lúc đoán ra.
Tôi lùi trở lại lỗ thủng. Chimera gầm gừ tiến đến, miệng thở khói cuồn cuộn.
Phủ thủy rắn Echidna đắc thắng:
- Thời nay anh hùng sao bì được thời xưa, phải không con trai?
Quái thú tru lên. Thấy tôi tơi tả, nó nóng lòng muốn kết liễu tôi cho xong. Liếc nhìn nhân viên an ninh và gia đình cậu bé, tôi thấy cậu ta núp sau chân bố.
Tôi phải bảo vệ họ, chết bây giờ... không phải lúc!
Tôi cố nghĩ cách nhưng toàn thân nóng rực. Đầu óc quay cuồng.
Tôi không có gươm. Trước mặt tôi là quái thú khạc ra lửa và phù thuỷ mẹ nó. Còn tôi đang run sợ.
Không còn chỗ để lùi thêm nữa, tôi đã tiến sát miệng hố. Tít phía dưới kia là dòng sông lóng lánh ánh bạc.
Nếu tôi chết, mẹ con quái thú có bỏ đi không? Chúng có tha những người vô tội kia không?
Echidna rít lên:
- Nếu đúng con thần Poseidon, ngươi đâu sợ nước. Ta thách ngươi nhảy xuống sông đấy. Nếu không chứng minh được nước không làm hại ngươi, ngươi chẳng là cái thá gì cả. Nhảy xuống vớt gươm lên xem nào. Thế mà cứ huênh hoang ta đây con dòng cháu giống.
Tôi nghĩ thầm: "Đúng rồi."
Tôi nhớ có sách dạy rằng nhảy từ trên cao, khoảng cách bằng toà nhà hai tầng xuống nước, giống như lao thẳng xuống nền nhựa đường. Còn từ độ cao này, da thịt tôi sẽ nát nhừ.
Miệng con Chimera đỏ rực, chuẩn bị khạc lửa.
Mụ Echidna bảo tôi:
- Ngươi không có lòng tin. Không tin tưởng các thần trên trời. Ta không trách nhóc con hèn nhát. Ngươi có sống cũng chẳng làm nên trò trống gì. Thần thánh không giúp gì được ngươi. Nọc độc sắp chạy vào tim rồi.
Mụ nói không sai. Tôi sắp chết rồi, hơi thở yếu dần.
Không ai cứu nổi tôi, kể cả các thần trên đỉnh Olympia.
Tôi lùi tiếp và quan sát dòng sông bên dưới.
Tôi nhớ vầng hào quang ấm áp từ nụ cười của cha. Chắc chắn ông đã nhìn mặt tôi. Lúc tôi còn nằm nôi, cha đã ghé thăm tôi rồi.
Tôi nhớ cây đinh ba quay tròn trên đầu đêm hội cướp cờ, dấu hiện cho thấy thần Poseidon đã nhận con.
Nhưng dưới kia không phải biển, chỉ là sông Mississippi nằm giữa địa phận Hoa Kỳ. Thần biển không có ở đó.
- Kẻ mất lòng tin như ngươi đáng chết.
Echidna lải nhải, Chimera khạc cột lửa thẳng tới mặt tôi.
Tôi cầu xin:
- Cha ơi, cứu con.
Tôi quay người lao xuống sông trong lúc quần áo bắt lửa và độc tố theo máu đi khắp cơ thể.
Danh sách chương