Mọi người trong cung vẫn nhớ như in ngày đó, Sở Hoằng máu me bê bết ôm Hoàng Hậu đã chết của mình đần độn ngồi đó ba ngày ba đêm.
Kẻ ám sát đã bị hộ vệ bắt giữ, kẻ thao túng sau rèm cũng bị đẩy vào tù, chờ ngày đem ra xử trảm.
Giết một người thôi, rất đơn giản với Sở Hoằng, nhưng muốn cải tử một người, lại quá đỗi khó khăn.
Dưa ngốc của hắn chết rồi, chết thật rồi.
Điểm tâm đã có thêm món mới, nhưng không còn nhóc con ngốc nghếch ngồi bên vừa nhồi nhét đồ ăn vừa híp mắt sung sướng, “Ngon quá.”
Đời này, hắn không thể thấy dáng vẻ ngoan hiền và thỏa mãn ấy nữa.
*
Sở Hoằng cô độc ngồi giữa cung Phượng Linh, nhồi nhét đầy hạch đào, thịt sấy, rồi hai miếng bánh, sặc đến ho đỏ mắt, cung nữ đứng bên đưa nước tới lại bị hắn hất văng, lạnh lùng quát: “Tránh ra, mặc kệ Trẫm.”
“Hoàng Thượng —” – cung nữ thấy hắn như vậy cũng không đành lòng, “Ngài đừng tra tấn bản thân nữa, nương nương còn sống cũng không muốn thấy ngài như vậy.”
“Câm mồm!” – Sở Hoằng trợn mắt nhìn nàng, lẩm bẩm: “Hoàng Hậu các ngươi từ bé đã nghe lời, ngoan hơn hẳn những đứa bé khác. Vậy mà chỉ có một lần y không chịu nghe lời Trẫm, rõ ràng Trẫm đã bảo y đừng ra ngoài…”
Quãng thời gian đó trôi qua thật dài, Sở Hoằng không lên Triều, hầu hết thì giờ đều ngồi trong Phượng Linh cung, khắc vài ba món đồ chơi, không thì thử làm mặt nạ.
Hắn dán mặt nạ lên rất nhiều người, nhìn bề ngoài hệt như Văn Nhân Thiện lúc còn sống, nhưng lúc nào cũng thiếu sự linh lợi bẩm sinh của cậu, hắn suy sụp nói: “Không giống, các ngươi đều không giống…”
Cho đến một ngày, hắn ngừng làm mặt nạ, đổi thành chế tạo con rối.
Trước kia dùng nhiều loại gỗ đều không vừa ý, cho đến một ngày, Hồ Tranh đốn một cây gỗ lê ngàn năm ở biên thùy, sai người vận chuyển vào trong cung.
Sở Hoằng dốc hết tâm huyết, tạo hình, mài mòn đừng ly từng tí một, cho đến khi con rối có khuôn mặt y đúc và vóc dáng độc nhất vô nhị Văn Nhân Thiện.
Chỉ có điều, nó vẫn là chỉ vật chết, không nói, không cười, cũng không đi lại.
Sau đó, Sở Hoằng phái người giăng trận pháp bẫy một con hồ ly tu hành ngàn năm trên Thiên Vân sơn theo lời một vị đạo sĩ, mổ bụng nó lấy yêu đan, khảm vào người con rối.
Chỉ thấy con rối gỗ lập tức sinh cơ hóa cốt, làn da mềm mại dần bao phủ. Khi nó mở đôi mắt vô thần, ngơ ngác nhìn Sở Hoằng, Sở Hoằng đã có một ảo giác, Thiện Nhi của hắn đã trở về.
Chẳng qua ảo giác đó chẳng tồn tại được lâu đã vờ òa trong thất vọng. Con rối cứ trơ ra, không cười, không khóc, cả ngày chỉ trưng khuôn mặt vô cảm, như thể cả thế gian đều đang nợ nó.
Sở Hoằng biết nó chỉ là một thứ yêu quái, không phải Thiện Nhi của mình, lại vẫn cứ luôn miệng gọi nó là “Hoàng Hậu”, khi đó, hắn không buông bỏ được, chỉ đành chọn cách tự dối lòng.
Người trong cung cũng biết Hoàng Thượng điên rồi, nhưng không ai dám động chạm vào vết thương của hắn, cũng chỉ biết gọi “Hoàng Hậu nương nương” hùa theo mỗi khi trông thấy “Văn Nhân Thiện”.
Lúc đầu, con rối chỉ lẳng lặng nhìn, không nói không rằng, cho đến nửa năm sau, đột nhiên nó bình thản trả lời, “Bình thân.”
Từ đó, trong cung càng thêm u ám.
Nô tài trong cung nơm nớp bất an, chỉ sợ bị yêu quái bắt ăn thịt, duy có Sở Hoằng là không sợ, thậm chí còn ngày đêm túc trực bên “Hoàng Hậu” của hắn, dạy y nói chuyện, dạy y viết chữ, dạy y suy tư.
Lại chỉ có một thứ mà hắn dạy mãi không được, dạy cười.
Khuôn mặt khắc gỗ kia thật sự cứng nhắc, Sở Hoằng ở chung hai năm trời, chưa hề thấy khuôn mặt ấy lộ ra biểu cảm gì.
Dù bị hôn trước mặt bao người, nó cũng không hề đỏ mặt.
Sở Hoằng cũng chẳng còn trông cậy gì một con rối gỗ có thể thay thế Văn Nhân Thiện, vậy nhưng vẫn giữ nó bên mình, có người để mình tâm sự cũng tốt.
Khi hắn say, khi hắn nhớ, khi hắn phát điên vì tưởng niệm, con rối không biểu lộ cảm giác chán ghét hay đồng tình, vậy là đã đủ.
Thứ hắn cần, chính là một người có thể im lặng nghe hắn nói, như vậy.
Sau đó, lại một năm nữa trôi qua, con rối bắt đầu học được cách quan tâm chăm sóc, khi Sở Hoằng duyệt tấu thâu đêm, nó sẽ bưng một ấm trà hoa cúc, trong thả bạc hà và đường, hệt như Văn Nhân Thiện khi xưa.
Thỉnh thoảng thấy Sở Hoằng ngủ gục, nó cũng sẽ nhẹ nhàng đắp cho hắn một chiếc áo choàng.
So với Văn Nhân Thiện hiếu động hoạt bát, con rối im lặng vô cùng.
Khi đã xong xuôi, con rối sẽ lẳng lặng rời khỏi Ngự thư phòng, bước thật nhẹ và cẩn thận, sợ quẫy nhiễu người đang mơ.
Mà Sở Hoằng, vì xúc giác mẫn cảm hơn người, đã tỉnh ngay khi con rối đắp áo cho hắn. Thế nhưng hắn không muốn mở mắt, không muốn nhìn nó, không muốn đối diện với đôi mắt vô hồn kia, rồi hắn lại tự nhắc nhở mình hết lần này tới lần khác, rằng đó không phải Văn Nhân Thiện, Thiện Nhi đã không thể quay về.
Có đôi khi, Sở Hoằng không biết, rốt cuộc hắn đang sống ở thực tại, hay trong giấc mơ.
Hắn vừa mê hoặc mình, vừa nhắc nhở chính mình.
Cứ thể lặp lại, càng không ngừng tổn thương chính hắn.
Đến khi ngoái lại, đã đằng đẵng hai năm.
Không buông được vẫn là không buông được.
Không níu giữ vẫn là không níu giữ được.
…
Kể đến đây, Tiểu Đậu Tử buồn bã, “Hai năm nay, lúc nào các đại thần cũng dâng tấu mong Hoàng Thượng sắc phong Hoàng Hậu mới, hoặc phi tần cũng được. Nhưng mà Hoàng Thượng không đồng ý, hắn cảm thấy cưới người mới chẳng khác nào phản bội tình cảm của Văn Nhân ca ca. Dù sao, Văn Nhân ca ca cũng vì hắn mà chết.”
Bản Vương lắc đầu, “Vậy hắn giữ con rối bên cạnh cũng chỉ tra tấn mình thôi.”
“Thì có ai bảo không phải đâu.” – Tiểu Đậu Tử bốc đường bỏ vào miệng, “Trông Hoàng Thượng ngang ngược vênh váo vậy chứ, thật ra nội tâm yếu đuối lắm.”
“Vậy ấy hả?” – hai người chúng ta đang tán gẫu, Sở Hoằng bỗng nhiên xuất hiện, cười như không cười bảo: “Không biết Trẫm yếu ở đâu?”
Tiểu Đậu Tử giật bắn mình, vội vàng quỳ xuống, dập đầu: “Nô tài bái kiến Hoàng Thượng.”
Sở Hoằng cười lạnh, “Trong cung dám nói xấu chủ nhân đáng tội chết.”
“Nô tài biết sai, xin Hoàng Thượng tha thứ.” – Tiểu Đậu Tử vừa nói vừa đáng thương nhìn ta.
Đề tài này cũng do Bản Vương khơi mào, bị Sở Hoằng bắt quả tang cũng do Bản Vương sơ ý, thế là đành phải đứng ra lựa lời xin cho Tiểu Đậu Tử, “Hoàng Thượng, việc này là lỗi của ta, là ta không nên hỏi chuyện nhà của ngươi, đắc tội quá, mong Hoàng Thượng bao dung.”
Sở Hoằng nắm tay Văn Nhân Thiện ngồi xuống, “Xem ra Vương gia rất quý tiểu tử này nhỉ.”
Bản Vương cười, “Thằng bé tính tình đơn thuần, hoạt bát đáng yêu, Bản Vương quả có thích nó.”
“Thích là được rồi.” – Sở Hoằng vuốt môi, “Không lại nói Đại Sở ta không tiếp đãi chu đáo.”
Bản Vương: “Đã phiền Hoàng Thượng lo lắng.”
Ngồi không một lát, Sở Hoằng nói, “À đúng rồi, lần này Trẫm đến là muốn xin ngươi một bộ tranh chữ, Hoàng Hậu của Trẫm nghe nói ngươi viết rất đẹp, vẽ cũng cao siêu, ở Yến Quốc được xưng là Thư Thánh Họa Thánh, nên đến đây muốn xin ngươi một bộ tranh chữ về treo, không biết Vương gia có vinh hạnh không.”
Bản Vương liếc sang Văn Nhân Thiện, chỉ thấy y cũng đang nhìn ta, mặt tỉnh queo bảo: “Làm phiền Vương gia.”
Bản Vương có hơi bực dọc. Không hiểu một con rối như y thì sưu tập tranh chữ làm gì. Tuy biết y suy nghĩ được, cũng có một ít tình cảm của con người, nhưng không đến mức chỉ trong một thời gian ngắn đã học được thưởng thức tranh chữ đi.
Lại liếc sang Sở Hoằng, thấy hắn ta đang cúi đầu uống trà, mắt đảo liên láo. Bản Vương buồn cười, rành là Vua một nước lại không muốn mất mặt đi xin người ta, thế mới lôi Văn Nhân Thiện theo ngụy trang.
Tranh thôi, Bản Vương chưa đến mức kẹt sỉ không cho hắn, lại tỏ ra khiêm tốn trả lời, “Yến Quốc ta nhiều nhân tài, Bản Vương ỷ mình quyền cao chức trọng nên bách tính nể mặt mới dành được cái hư danh ấy thôi. Chỉ sợ viết ra sẽ làm Hoàng Hậu chê cười.”
“Vương gia khiêm tốn quá. ” – Sở Hoằng ôm eo Văn Nhân Thiện, cợt nhả: “Hơn nữa, Hoàng Hậu của ta tốt bụng, dịu dàng đôn hậu lắm, không khiến ngươi mất mặt đâu. Ngươi chỉ cần vẽ thôi, dù có xấu như c*t chó, Thiện Nhi cũng không chê ngươi đâu.”
Khóe môi Bản Vương co giật, “Vậy tạ ơn Hoàng Hậu nương nương trước.”
Chẳng mấy chốc nô tài đã mang trà lên, Văn Nhân Thiện nói câu “Để đó”, rồi tự cầm bình trà, rót cho Bản Vương và Sở Hoằng.
“Làm phiền” – Bản Vương nói, cầm lên uống một ngụm, “Lại là Trường Tình à, quý Quốc quả là rất chuộng loại trà này.”
Sở Hoằng sửng sốt, “Trẫm nghe người ta nói, ngươi không có vị giác và khứu giác, sao ngươi lại nếm và ngửi được mùi vị?”
“À.” – Bản Vương gật đầu, “Trước kia, ngẫu nhiên có cơ hội lấy được từ người khác.”
Sở Hoằng càng kỳ lạ, “Lấy từ người khác?”
“Phải.” – Bản Vương đặt chén trà xuống, “Yến Quốc ta có một cao thủ chế hương tên là Phong Mộ Ngôn, khứu giác của hắn rất linh mẫn, điều khiện để Bản Vương hồi sinh người yêu đã chết của hắn là lấy đi khứu giác của hắn. Sau đó, Bản Vương đến Hoa Thành, gặp được Tửu Thánh Thư Cảnh Càn của Yến Quốc, vị giác của hắn rất nhạy, Bản Vương cứu người yêu giúp hắn, đánh đổi lấy vị giác của hắn. Nếu Hoàng Thượng có tâm nguyện gì muốn đạt thành, cũng có thể đổi với ta.”
Sở Hoằng sửng sốt, “Vương gia nói đùa phải không?”
“Không.” – Bản Vương lắc đầu, “Chuyện quan trọng, ta chưa hề nói đùa.”
Sở Hoằng dừng lại, hỏi: “Vậy Vương gia muốn lấy thứ gì trên người Trẫm? Để Trẫm đoán, thứ này vừa phải hơn người, lại vừa hữu dụng với ngươi, không phải là xúc giác của Trẫm đấy chứ?”
Kẻ ám sát đã bị hộ vệ bắt giữ, kẻ thao túng sau rèm cũng bị đẩy vào tù, chờ ngày đem ra xử trảm.
Giết một người thôi, rất đơn giản với Sở Hoằng, nhưng muốn cải tử một người, lại quá đỗi khó khăn.
Dưa ngốc của hắn chết rồi, chết thật rồi.
Điểm tâm đã có thêm món mới, nhưng không còn nhóc con ngốc nghếch ngồi bên vừa nhồi nhét đồ ăn vừa híp mắt sung sướng, “Ngon quá.”
Đời này, hắn không thể thấy dáng vẻ ngoan hiền và thỏa mãn ấy nữa.
*
Sở Hoằng cô độc ngồi giữa cung Phượng Linh, nhồi nhét đầy hạch đào, thịt sấy, rồi hai miếng bánh, sặc đến ho đỏ mắt, cung nữ đứng bên đưa nước tới lại bị hắn hất văng, lạnh lùng quát: “Tránh ra, mặc kệ Trẫm.”
“Hoàng Thượng —” – cung nữ thấy hắn như vậy cũng không đành lòng, “Ngài đừng tra tấn bản thân nữa, nương nương còn sống cũng không muốn thấy ngài như vậy.”
“Câm mồm!” – Sở Hoằng trợn mắt nhìn nàng, lẩm bẩm: “Hoàng Hậu các ngươi từ bé đã nghe lời, ngoan hơn hẳn những đứa bé khác. Vậy mà chỉ có một lần y không chịu nghe lời Trẫm, rõ ràng Trẫm đã bảo y đừng ra ngoài…”
Quãng thời gian đó trôi qua thật dài, Sở Hoằng không lên Triều, hầu hết thì giờ đều ngồi trong Phượng Linh cung, khắc vài ba món đồ chơi, không thì thử làm mặt nạ.
Hắn dán mặt nạ lên rất nhiều người, nhìn bề ngoài hệt như Văn Nhân Thiện lúc còn sống, nhưng lúc nào cũng thiếu sự linh lợi bẩm sinh của cậu, hắn suy sụp nói: “Không giống, các ngươi đều không giống…”
Cho đến một ngày, hắn ngừng làm mặt nạ, đổi thành chế tạo con rối.
Trước kia dùng nhiều loại gỗ đều không vừa ý, cho đến một ngày, Hồ Tranh đốn một cây gỗ lê ngàn năm ở biên thùy, sai người vận chuyển vào trong cung.
Sở Hoằng dốc hết tâm huyết, tạo hình, mài mòn đừng ly từng tí một, cho đến khi con rối có khuôn mặt y đúc và vóc dáng độc nhất vô nhị Văn Nhân Thiện.
Chỉ có điều, nó vẫn là chỉ vật chết, không nói, không cười, cũng không đi lại.
Sau đó, Sở Hoằng phái người giăng trận pháp bẫy một con hồ ly tu hành ngàn năm trên Thiên Vân sơn theo lời một vị đạo sĩ, mổ bụng nó lấy yêu đan, khảm vào người con rối.
Chỉ thấy con rối gỗ lập tức sinh cơ hóa cốt, làn da mềm mại dần bao phủ. Khi nó mở đôi mắt vô thần, ngơ ngác nhìn Sở Hoằng, Sở Hoằng đã có một ảo giác, Thiện Nhi của hắn đã trở về.
Chẳng qua ảo giác đó chẳng tồn tại được lâu đã vờ òa trong thất vọng. Con rối cứ trơ ra, không cười, không khóc, cả ngày chỉ trưng khuôn mặt vô cảm, như thể cả thế gian đều đang nợ nó.
Sở Hoằng biết nó chỉ là một thứ yêu quái, không phải Thiện Nhi của mình, lại vẫn cứ luôn miệng gọi nó là “Hoàng Hậu”, khi đó, hắn không buông bỏ được, chỉ đành chọn cách tự dối lòng.
Người trong cung cũng biết Hoàng Thượng điên rồi, nhưng không ai dám động chạm vào vết thương của hắn, cũng chỉ biết gọi “Hoàng Hậu nương nương” hùa theo mỗi khi trông thấy “Văn Nhân Thiện”.
Lúc đầu, con rối chỉ lẳng lặng nhìn, không nói không rằng, cho đến nửa năm sau, đột nhiên nó bình thản trả lời, “Bình thân.”
Từ đó, trong cung càng thêm u ám.
Nô tài trong cung nơm nớp bất an, chỉ sợ bị yêu quái bắt ăn thịt, duy có Sở Hoằng là không sợ, thậm chí còn ngày đêm túc trực bên “Hoàng Hậu” của hắn, dạy y nói chuyện, dạy y viết chữ, dạy y suy tư.
Lại chỉ có một thứ mà hắn dạy mãi không được, dạy cười.
Khuôn mặt khắc gỗ kia thật sự cứng nhắc, Sở Hoằng ở chung hai năm trời, chưa hề thấy khuôn mặt ấy lộ ra biểu cảm gì.
Dù bị hôn trước mặt bao người, nó cũng không hề đỏ mặt.
Sở Hoằng cũng chẳng còn trông cậy gì một con rối gỗ có thể thay thế Văn Nhân Thiện, vậy nhưng vẫn giữ nó bên mình, có người để mình tâm sự cũng tốt.
Khi hắn say, khi hắn nhớ, khi hắn phát điên vì tưởng niệm, con rối không biểu lộ cảm giác chán ghét hay đồng tình, vậy là đã đủ.
Thứ hắn cần, chính là một người có thể im lặng nghe hắn nói, như vậy.
Sau đó, lại một năm nữa trôi qua, con rối bắt đầu học được cách quan tâm chăm sóc, khi Sở Hoằng duyệt tấu thâu đêm, nó sẽ bưng một ấm trà hoa cúc, trong thả bạc hà và đường, hệt như Văn Nhân Thiện khi xưa.
Thỉnh thoảng thấy Sở Hoằng ngủ gục, nó cũng sẽ nhẹ nhàng đắp cho hắn một chiếc áo choàng.
So với Văn Nhân Thiện hiếu động hoạt bát, con rối im lặng vô cùng.
Khi đã xong xuôi, con rối sẽ lẳng lặng rời khỏi Ngự thư phòng, bước thật nhẹ và cẩn thận, sợ quẫy nhiễu người đang mơ.
Mà Sở Hoằng, vì xúc giác mẫn cảm hơn người, đã tỉnh ngay khi con rối đắp áo cho hắn. Thế nhưng hắn không muốn mở mắt, không muốn nhìn nó, không muốn đối diện với đôi mắt vô hồn kia, rồi hắn lại tự nhắc nhở mình hết lần này tới lần khác, rằng đó không phải Văn Nhân Thiện, Thiện Nhi đã không thể quay về.
Có đôi khi, Sở Hoằng không biết, rốt cuộc hắn đang sống ở thực tại, hay trong giấc mơ.
Hắn vừa mê hoặc mình, vừa nhắc nhở chính mình.
Cứ thể lặp lại, càng không ngừng tổn thương chính hắn.
Đến khi ngoái lại, đã đằng đẵng hai năm.
Không buông được vẫn là không buông được.
Không níu giữ vẫn là không níu giữ được.
…
Kể đến đây, Tiểu Đậu Tử buồn bã, “Hai năm nay, lúc nào các đại thần cũng dâng tấu mong Hoàng Thượng sắc phong Hoàng Hậu mới, hoặc phi tần cũng được. Nhưng mà Hoàng Thượng không đồng ý, hắn cảm thấy cưới người mới chẳng khác nào phản bội tình cảm của Văn Nhân ca ca. Dù sao, Văn Nhân ca ca cũng vì hắn mà chết.”
Bản Vương lắc đầu, “Vậy hắn giữ con rối bên cạnh cũng chỉ tra tấn mình thôi.”
“Thì có ai bảo không phải đâu.” – Tiểu Đậu Tử bốc đường bỏ vào miệng, “Trông Hoàng Thượng ngang ngược vênh váo vậy chứ, thật ra nội tâm yếu đuối lắm.”
“Vậy ấy hả?” – hai người chúng ta đang tán gẫu, Sở Hoằng bỗng nhiên xuất hiện, cười như không cười bảo: “Không biết Trẫm yếu ở đâu?”
Tiểu Đậu Tử giật bắn mình, vội vàng quỳ xuống, dập đầu: “Nô tài bái kiến Hoàng Thượng.”
Sở Hoằng cười lạnh, “Trong cung dám nói xấu chủ nhân đáng tội chết.”
“Nô tài biết sai, xin Hoàng Thượng tha thứ.” – Tiểu Đậu Tử vừa nói vừa đáng thương nhìn ta.
Đề tài này cũng do Bản Vương khơi mào, bị Sở Hoằng bắt quả tang cũng do Bản Vương sơ ý, thế là đành phải đứng ra lựa lời xin cho Tiểu Đậu Tử, “Hoàng Thượng, việc này là lỗi của ta, là ta không nên hỏi chuyện nhà của ngươi, đắc tội quá, mong Hoàng Thượng bao dung.”
Sở Hoằng nắm tay Văn Nhân Thiện ngồi xuống, “Xem ra Vương gia rất quý tiểu tử này nhỉ.”
Bản Vương cười, “Thằng bé tính tình đơn thuần, hoạt bát đáng yêu, Bản Vương quả có thích nó.”
“Thích là được rồi.” – Sở Hoằng vuốt môi, “Không lại nói Đại Sở ta không tiếp đãi chu đáo.”
Bản Vương: “Đã phiền Hoàng Thượng lo lắng.”
Ngồi không một lát, Sở Hoằng nói, “À đúng rồi, lần này Trẫm đến là muốn xin ngươi một bộ tranh chữ, Hoàng Hậu của Trẫm nghe nói ngươi viết rất đẹp, vẽ cũng cao siêu, ở Yến Quốc được xưng là Thư Thánh Họa Thánh, nên đến đây muốn xin ngươi một bộ tranh chữ về treo, không biết Vương gia có vinh hạnh không.”
Bản Vương liếc sang Văn Nhân Thiện, chỉ thấy y cũng đang nhìn ta, mặt tỉnh queo bảo: “Làm phiền Vương gia.”
Bản Vương có hơi bực dọc. Không hiểu một con rối như y thì sưu tập tranh chữ làm gì. Tuy biết y suy nghĩ được, cũng có một ít tình cảm của con người, nhưng không đến mức chỉ trong một thời gian ngắn đã học được thưởng thức tranh chữ đi.
Lại liếc sang Sở Hoằng, thấy hắn ta đang cúi đầu uống trà, mắt đảo liên láo. Bản Vương buồn cười, rành là Vua một nước lại không muốn mất mặt đi xin người ta, thế mới lôi Văn Nhân Thiện theo ngụy trang.
Tranh thôi, Bản Vương chưa đến mức kẹt sỉ không cho hắn, lại tỏ ra khiêm tốn trả lời, “Yến Quốc ta nhiều nhân tài, Bản Vương ỷ mình quyền cao chức trọng nên bách tính nể mặt mới dành được cái hư danh ấy thôi. Chỉ sợ viết ra sẽ làm Hoàng Hậu chê cười.”
“Vương gia khiêm tốn quá. ” – Sở Hoằng ôm eo Văn Nhân Thiện, cợt nhả: “Hơn nữa, Hoàng Hậu của ta tốt bụng, dịu dàng đôn hậu lắm, không khiến ngươi mất mặt đâu. Ngươi chỉ cần vẽ thôi, dù có xấu như c*t chó, Thiện Nhi cũng không chê ngươi đâu.”
Khóe môi Bản Vương co giật, “Vậy tạ ơn Hoàng Hậu nương nương trước.”
Chẳng mấy chốc nô tài đã mang trà lên, Văn Nhân Thiện nói câu “Để đó”, rồi tự cầm bình trà, rót cho Bản Vương và Sở Hoằng.
“Làm phiền” – Bản Vương nói, cầm lên uống một ngụm, “Lại là Trường Tình à, quý Quốc quả là rất chuộng loại trà này.”
Sở Hoằng sửng sốt, “Trẫm nghe người ta nói, ngươi không có vị giác và khứu giác, sao ngươi lại nếm và ngửi được mùi vị?”
“À.” – Bản Vương gật đầu, “Trước kia, ngẫu nhiên có cơ hội lấy được từ người khác.”
Sở Hoằng càng kỳ lạ, “Lấy từ người khác?”
“Phải.” – Bản Vương đặt chén trà xuống, “Yến Quốc ta có một cao thủ chế hương tên là Phong Mộ Ngôn, khứu giác của hắn rất linh mẫn, điều khiện để Bản Vương hồi sinh người yêu đã chết của hắn là lấy đi khứu giác của hắn. Sau đó, Bản Vương đến Hoa Thành, gặp được Tửu Thánh Thư Cảnh Càn của Yến Quốc, vị giác của hắn rất nhạy, Bản Vương cứu người yêu giúp hắn, đánh đổi lấy vị giác của hắn. Nếu Hoàng Thượng có tâm nguyện gì muốn đạt thành, cũng có thể đổi với ta.”
Sở Hoằng sửng sốt, “Vương gia nói đùa phải không?”
“Không.” – Bản Vương lắc đầu, “Chuyện quan trọng, ta chưa hề nói đùa.”
Sở Hoằng dừng lại, hỏi: “Vậy Vương gia muốn lấy thứ gì trên người Trẫm? Để Trẫm đoán, thứ này vừa phải hơn người, lại vừa hữu dụng với ngươi, không phải là xúc giác của Trẫm đấy chứ?”
Danh sách chương