Đám người Diệp Ngưng Hoan vào Uyển Thành, con thứ Lư Tùng Vương Sở Chính Địch phòng giữ nơi này, nghe nói trắc phi dẫn Diệp Ngưng Hoan đến đây, liền phái vợ mình Mạc thị sang đây hầu hạ. Diệp Ngưng Hoan tâm tình không tốt, còn phải miễn cưỡng xã giao, rất phiền não.

Ngồi trong Nghi Phương Trai chọn lụa Hoa, chưởng quầy ở đây chính là nô tài vương phủ, tiếp đón cực kỳ nhiệt tình: mời ra hậu viện đông các, dâng trà mới, cũng cầm mấy kiểu hoa văn mới nhất ra cho Diệp Ngưng Hoan chọn.

Lụa Hoa tinh xảo vô cùng, tơ tằm mẫu đơn đan ngọc cũng có, kiểu lau sậy cũng có, còn có kiểu nút thắt củ ấu bát giác tinh chế, may bên ngoài áo rất khác lạ. Lụa tơ tằm mềm mại, còn trải qua tẩm hương liệu được xử lý đặc biệt, vừa không sợ sâu mọt lại sáng rõ thấm hương.

Diệp Ngưng Hoan nhìn lụa Hoa mà ngẩn người, căn bản không còn hăng say để lựa chọn, nghe thấy bên ngoài có tiếng bước chân nặng nề, nàng vừa nhấc mắt, phát hiện không biết khi nào thì mấy người Đông Anh cũng không còn. Nhất thời không rõ, tiếng đập cửa bên ngoài vang lên, kèm thêm tiếng nói trầm thấp đặc thù của Vân Tê Lam: “Phu nhân, đưa cho người xem chút kiểu hoa văn mới.”

Diệp Ngưng Hoan thầm hừ một tiếng, nói: “Vào đi.”

Vân Tê Lam đang cầm một cái khay lụa Hoa tiến vào, thấy dáng vẻ miễn cưỡng của Diệp Ngưng Hoan, cười nói: “Nếu thấy những thứ này không đẹp thì cho chưởng quầy lại lấy thêm nữa. Tiểu Vân Cư đã sửa sang lại thỏa đáng, đợi đến buổi tối có thể đi qua. Nơi đó…”

Diệp Ngưng Hoan ném lụa Hoa trong tay, ngắt lời nàng ta: “Không cần, hôm nay ta trở về Thái Nguyệt Các.”

Vân Tê Lam giật mình, nhìn nét mặt Diệp Ngưng Hoan: “Phu nhân đã đến đây, sao lại vội vã trở về? Buổi tối đường núi khó đi, không bằng ở Tiểu Vân Cư tạm nghỉ một ngày? Trong vườn kia có hạnh chua và mơ, phu nhân không phải thích nhất mấy món này sao?”

“Vậy cũng phải xem hoàn cảnh ra sao.” Diệp Ngưng Hoan cười lạnh, “Ta cũng là thị thiếp của Thập Cửu điện hạ, tuân thủ bổn phận của mình, không dám ở lâu bên ngoài, điều động binh lực như vậy đã vô cùng sợ hãi. Thời giờ cũng không còn sớm, đi dạo cũng chả được bao nhiêu, vậy thì trở về đi?”

Vân Tê Lam im lặng một lúc lâu không lên tiếng, Diệp Ngưng Hoan bưng trà lên uống một ngụm, cúi đầu nói: “Ta tất nhiên là không nhìn ra dạng chén gì, cũng không nếm ra loại nước nào, nhưng mà ước lượng được cân lượng của mình, hiểu được thân phận của mình.”

Vân Tê Lam lẳng lặng nghe xong, xoay người lại đóng cửa nói: “Phu nhân có hiểu lầm cái gì hay không?”

Diệp Ngưng Hoan nhíu mày: “Hiểu lầm? Lời này hỏi hay đến kỳ quái.”

Vân Tê Lam thầm thở dài: “Vốn là không muốn nói rõ, một là vì trong Thái Nguyệt Các nhiều người lắm mắt, dù sao không tiện; hai là sợ phu nhân trong lòng không yên. Chỉ có điều thoạt nhìn phu nhân hình như là hiểu theo hướng khác, như thế chẳng thà nói rõ thì tốt hơn.”

Thấy nét mặt chăm chú của nàng ta, Diệp Ngưng Hoan không thể không bỏ chén xuống nhìn nàng ta.

Vân Tê Lam nói: “Phu nhân có nhớ khoảng chừng bốn năm năm trước có dùng biện pháp khoét cốt kéo gân để luyện công hay không?”

Diệp Ngưng Hoan ngẩn ra, Vân Tê Lam nói: “Sau tuy rằng mềm mại vô song, nhưng thường xuyên máu nghịch kinh loạn, bệnh ứ đọng trong thân thể. Phu nhân lại không cẩn thận, một mực khổ luyện gân cốt khiến kỹ năng múa vượt trội, lại làm máu nghịch ngũ tạng không thông, tứ chi thường co lại run rẩy không ngừng, thậm chí nôn ra máu. Sau lại bị thương, trong ngoài đều tổn hại. Mặc dù thuốc đại nội có thể chống đỡ, nhưng chỉ trị bề ngoài mà không thể trừ tận gốc. Muốn trị liệu, thế nào cũng phải trải qua Lạc Hoa Tâm của Ảnh Nguyệt Môn ta, dẫn thông kinh mạch lọc máu đọng. Lại lấy ngân châm liên mạch, tiếp đến lạc đan. Lúc trước Thập Cửu điện hạ dặn ta xem hộ phu nhân, lại sợ phu nhân quá nhạy cảm, không dám xem mạch, vì thế mới tán gẫu việc nhà với phu nhân một phen, nhưng cũng biết phu nhân có tật khó sửa. Ngay sau đó không dám trì hoãn, liền mời phu nhân đến Tiểu Vân Cư ở tạm mấy ngày. Thập Cửu điện hạ cũng nói, phu nhân muốn đến Uyển Thành dạo, ta liền cảm thấy là thời cơ… Phu nhân, thật là không thể kéo dài nữa, nếu không sớm trị liệu, chỉ sợ nguy hiểm đến tính mạng.”

Diệp Ngưng Hoan toàn bộ đều tê cứng, kinh ngạc nhìn Vân Tê Lam không nói lời nào.

Vân Tê Lam thấy nàng như vậy, cho là nàng sợ hãi, vội vàng nói: “Phu nhân cũng không nhất định phải sợ, Tiểu Vân Cư là một chỗ thanh tịnh, thích hợp chữa thương dưỡng bệnh, do ta tự mình điều trị cho phu nhân, nhất định sẽ dùng hết khả năng, không dám có chút chậm trễ. Huống hồ trắc phi còn ở đây, cho dù ở lâu mấy ngày cũng không sao.”

Diệp Ngưng Hoan hồi lâu mới thở ra một hơi: “Để ta tới đây, hóa ra là…”

Vân Tê Lam gật gật đầu, Diệp Ngưng Hoan trong lòng thảm thiết, thấp giọng nói: “Ta thật sự… sắp chết?”

“Không có không có. Phu nhân vạn lần đừng nghĩ như vậy.” Vân Tê Lam vội vàng an ủi.

Diệp Ngưng Hoan cúi đầu nói: “Đã như vậy, ta đây phải trị thôi.”

Lòng đang lung lay sắp đổ, không chịu nổi thêm gánh nặng nào. Dường như lại nhớ tới nhiều năm trước, người kia đôi mắt như sao sáng, cười như hoa nở. Y nói, muội ở trong lòng ta không giống bất kỳ ai. Vì một câu này, khiến cho lòng đau thân cũng tàn.

Lúc này đây, lại như men say dưới ánh trăng mờ lúc trước, chỉ là không biết hồi lâu sau, nàng còn có thể có một cơ hội tỉnh lại nữa hay không.

Bất tri bất giác, nước mắt rơi xuống từng giọt.

Đã mười tám tháng mười, thời tiết có phần âm u, sáng sớm có mưa phùn xen lẫn bông tuyết, tới buổi trưa biến thành cảnh núi rừng phun sương. Thái Nguyệt Các bị một mảnh sương mù trên núi bao vây, như ảo như thật, như tâm tình Sở Hạo.

Ngồi trên đài ngắm cảnh ở Miên Nguyệt Hiên, trước mặt là bầu rượu Hoa Lăng trên bàn đá, hương thơm xông vào mũi.

Miên Nguyệt Hiên này dán vách tường mà xây, là tòa tiểu lâu ba tầng, thấy thung lũng chắn gió, cũng không ngăn cản tầm mắt, lấy cảnh trí thiên nhiên làm tấm bình phong che chở, đài ngắm cảnh kéo dài, có thể ngắm cảnh Yên Ninh.

Gió lạnh rít qua, lúc đám sương mù tản ra, ngẫu nhiên có thể thấy được vòng quanh phía dưới có mấy bóng dáng thị vệ đang lơ là.

Thái Nguyệt Các không tính là lớn, nhưng xây ở trong núi địa thế kén chọn. Nhưng mà Thi Mật tinh thông bày bố, chỉ cần chút ít nhân mã là có thể quản lý chặt chẽ mỗi góc chết nơi này. Lộ ra bóng người là cố ý, đây là suy nghĩ vì chủ tử, đỡ phải cảm thấy hắn âm thầm quan sát, bằng không hoàn toàn có thể cẩn thận đến cả một bóng người cũng không thấy.

Sở Hạo ném quyển sách trong tay xuống, ánh mắt nhìn về phía Uyển Thành.

Bọn họ buổi trưa mùng sáu tới Lư Tùng, Vân Tê Lam được hắn nhờ vả, chạy đi xem bệnh tình Diệp Ngưng Hoan. Không xem thì thôi, vừa thấy liền nói Diệp Ngưng Hoan có chướng ngại về mạng sống, làm cho hắn lúc ấy như trúng một chưởng, tét ra thành hai nửa.

Đêm hôm đó không dám trở về, sợ trở về biểu hiện quái dị khiến nàng ngờ vực vô căn cứ. Hắn luôn giỏi ngụy trang, nhưng ở trước mặt nàng, hắn lại không có phần tự tin này.

May mắn trước đó nói cho nàng đi dạo Uyển Thành, nàng cũng muốn đi, cái này cho Vân Tê Lam cơ hội dẫn nàng tới Tiểu Vân Cư. Hắn dặn Vân Tê Lam và Thụy nương, bất luận thế nào ngày thứ hai cũng phải mang Diệp Ngưng Hoan qua đó.

Nơi đó là địa bàn của Ảnh Nguyệt Môn, thích hợp chữa bệnh.

Sáng sớm mùng bảy nàng đi, hắn ở đây xa xa nhìn nàng. Nàng được nâng lên ngồi, vẻ mặt oán phụ, giống như đi Uyển Thành vô cùng không vui. Nàng có khi giấu cảm xúc rất khá, có khi lại lộ ra ngoài hết sức phách lối. Ngày đó nàng hiển nhiên là vế sau, cách xa như vậy, vẫn để hắn nhìn thấy rõ ràng.

Nàng không muốn đi, không phải vì lụa Hoa không xinh đẹp, hạnh chua không mê người, mà là nơi đó có Tiểu Vân Cư! Hắn ngày đó vô tình, nàng người nghe có ý.

Nàng suy nghĩ nhiều, trong lòng tất nhiên là tức giận bất bình, thậm chí là nổi nóng.

Tục ngữ nói, nếu vô tâm cần gì phải chú ý? Nàng để tâm như vậy, đó chính là chưa đủ vô tâm. Nàng không thể quên được người kia, coi như hắn đã thất bại thảm hại, cho dù thân thể đã chết, nàng vẫn còn ưu tư!

Sở Chính Diêu có gì tốt? Sở Hạo liếc Thi Mật từ xa đi tới, bước chân vội vàng.

Thi Mật bước nhanh lên, hành lễ với hắn rồi nói: “Điện hạ, Bắc Hải Vương sai phiên sử đến. Thuộc hạ dựa theo điện hạ phân phó hỏi hắn, hắn nói bắc phiên đầu tháng mười sau khi nhận được mệnh lệnh triều đình thì tra nghiêm ra vào lui tới, chưa có bất kỳ ai khả nghi vào địa hạt. Bọn họ không chịu cho người vào bắc phiên, sau đó người đang ở quán dịch chờ truyền, điện hạ có muốn tự mình hỏi hắn một chút không?”

Nét mặt Thi Mật vô cùng nghiêm trọng, từ sau khi Vĩnh Thành Vương mất tích ở Đông Lâm lục quận, quật ba thước lục quận cũng không tìm thấy người. Nếu y chưa chết thì có hai nơi nên đi nhất: một, lẻn vào Ô Lệ; hai, lẻn vào nơi gần đông phiên nhất – Lư Tùng.

Tính đi tính lại, khả năng lẻn vào Ô Lệ nhỏ nhất, Ô Tùng Quan nơi đó núi cao vạn nhẫn (*) đầy hiểm trở chỉ có một con đường có thể đi, cửa khẩu biên giới cực kỳ chặt chẽ. Vĩnh Thành Vương vừa giao thân nhân tới Ô Lệ, náo loạn mấy ngày, ấn tượng của quan ải đối với y khá sâu, nếu y muốn dịch dung giả mạo thì khó như lên trời, mà hướng tây đi Lư Tùng thì dễ dàng hơn.

(*) nhẫn: đơn vị đo lường thời xưa, bằng 7 thước hay 8 thước

Một khi vào Lư Tùng, y có thể đi bắc tới chỗ của Bắc Hải Vương, cũng có thể đi tây nam vào Hưng Thành. Chỉ có điều Hưng Thành Vương sẽ không chứa chấp y, vả lại chuyến này Sở Hạo đã qua Hưng Thành, Bắc Hải Vương cũng khó tránh khỏi.

Vương Kỳ cùng đi theo Vĩnh Thành Vương hộ tống Công chúa, vì lo sợ tai họa mà không dám thông báo các quan ải khắp nơi tìm kiếm, chỉ sai người phi ngựa vào kinh thành bẩm báo.

Như thế lại cho Vĩnh Thành Vương thời cơ di chuyển, đợi đến khi Lư Tùng Vương nhận được mật lệnh triều đình hợp lực tra xét thì đã là cuối tháng chín.

Tới khi Sở Hạo đến Lư Tùng, Lư Tùng Vương trình lên kết quả điều tra, chứng tỏ đã tra được dấu vết Vĩnh Thành Vương từng qua lại ở thung lũng phía bắc núi Ô Sào, vẫn chưa tìm thấy người, đại khái là sau khi Vĩnh Thành Vương thoát khỏi Vương Kỳ, mượn cơ hội tin tức chưa được tiết lộ vào Lư Tùng, lẻn vào cánh bắc núi Ô Sào ẩn náu. Nơi đó cách biên giới tây nam bắc phiên chỉ có một ngọn núi, Vĩnh Thành Vương bây giờ vô cùng có khả năng đã lẻn vào địa hạt Bắc Hải.

Bắc Hải Vương gần đây luôn ầm ĩ với triều đình, cũng chỉ có hắn mới dám cất giấu Vĩnh Thành Vương ôm tội bỏ trốn!

Vì thế Sở Hạo liền sai người truyền tin cho Bắc Hải Vương, muốn hắn giúp triều đình tìm Vĩnh Thành Vương. Tuy nói Bắc Hải Vương cho Đông Lâm Vương thể diện, phái phiên sử lại đây nói chuyện, nhưng vẫn không chịu mở cửa phiên giới cho người ta tiến vào!

Nét mặt Sở Hạo như là đao khắc vào trên mặt, không có bất kỳ biến hóa nào: “Lư Tùng Vương biết không?”

“Đã thông báo cho Lư Tùng Vương, nói mặc cho điện hạ phân phó.” Thi Mật nói.

“Vĩnh Thành Vương che chở Công chúa, tiện đà mất tích, cự tuyệt không quay lại kinh thành. Thái độ Bắc Hải Vương hết sức kiên quyết, chúng ta cũng không tiện mạnh mẽ xông vào bắc phiên, đành phải báo cho Hoàng thượng phân xử.” Sở Hạo nói, “Cam Nhược không phải đã ở Uyển Thành sao? Ngươi phái người nói với hắn một tiếng, cho hắn giúp đỡ người quen ở Lư Tùng tiếp tục tra tường tận ở thung lũng phía bắc Ô Sào, để hồi kinh nói rõ cho Hoàng thượng, sau đó ta sẽ đích thân đi qua.”

“Rõ.” Thi Mật đáp lại, bước nhanh rời đi.

Sở Hạo nhìn bóng dáng Thi Mật càng ngày càng xa, ánh mắt hơi híp lại.

Hoàng thượng cũng không muốn thấy Vĩnh Thành Vương hồi kinh, tìm được hay không đều không quan trọng, nhưng Hoàng thượng cần một câu trả lời cho quần thần, để ván cờ này có thể kết thúc hoàn mỹ.

Hắn cũng là quân cờ của Hoàng thượng, cho dù đến Yên Ninh này, hắn vẫn đang ngàn quấn vạn bó nắm giữ trong tay Hoàng thượng. Nhưng mà, cũng không hẳn vậy!

Bắc Hải Vương Sở Chính Việt là con út Nhị ca hắn Sở Mi. Hắn sinh ở bắc quận. Chưa bao giờ vào kinh làm con tin. Lúc trước đưa đến kinh thành làm con tin là huynh trưởng của hắn, chỉ có điều vị Thế tử này không đợi đến lúc về phiên nhận tước, ở kinh năm năm thì sinh bệnh nặng, vài lần yêu cầu về lại cố hương đều bị từ chối, cuối cùng chết ở Vĩnh An.

Việc này xảy ra vào năm Khai Minh thứ bốn mươi, phụ trách mọi việc tôn thất lúc đó, là Thái tử đương thời, đương kim Hoàng thượng Sở Lan.

Cũng chính là vì vậy, Sở Mi từng buộc tội Thái tử, hai người sinh hiềm khích.

Năm Khai Minh thứ bốn mươi hai, Ô Luân phương bắc xâm phạm, Sở Mi trấn giữ phương bắc trước khi xuất chinh đã báo triều đình xin lập con út vợ cả Sở Chính Việt làm Thế tử. Sở Chính Việt được phong Thế tử còn chưa kịp vào kinh đã truyền đến tin dữ, lúc Sở Mi cùng Ô Luân đại chiến thì trúng mai phục, chết trong thung lũng cát. Bởi vậy, lúc ấy Sở Chính Việt mười lăm tuổi nhận tước vị làm vương.

Thái tử Sở Lan khi đó đảm nhiệm đốc quân, cùng Sở Mi ra chiến trường, Sở Mi chết thảm là vì không có tiếp viện, bắc phiên tức giận, chỉ trích Sở Lan dùng việc công để báo thù riêng. Lúc ấy Tiên đế tuổi đã già, trước đó trưởng tử Sở Giang chết trận, ngay cả con trai cũng không giữ lại. Sau lại đau xót Thái tử Sở Phong vừa mất. Lúc tuổi già bầy con phân tranh, Tiên đế nhất thời tức giận lại ban chết cho Sở Hào, hắn tất nhiên không thể nhận sai, nhưng trong lòng há có thể không đau?

Lúc ấy Sở Mi vừa chết, lại liên quan đến Thái tử, Tiên đế lại đau đớn không dậy nổi, sao lại truy cứu ai đúng ai sai vào lúc này?

Ngoại trừ trấn an bắc phiên ra, Tiên đế áp dụng phương pháp chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không.

Mấy người con trai lớn tuổi của Tiên đế, ngoại trừ con trai thứ tư Sở Phong làm Thái tử, con trai thứ năm Sở Mẫn thể trạng yếu ớt ra, mấy người còn lại đều theo cha chinh chiến từ tuổi thiếu niên, thật là có thể chiến đấu. Sở Mi và con trưởng Sở Giang giống nhau, mặc dù mẹ đẻ xuất thân không cao quý, nhưng từ nhỏ đã theo Tiên đế nam chinh bắc chiến, có thể được phong Tứ Phương Vương, tất cả đều là bằng đôi tay của chính mình làm nên.

Sở Mi chết thảm, chuyện xưa phẫn nộ khó yên, nhưng Sở Chính Việt đã mười lăm tuổi, từ đó hiềm khích với Sở Lan ngày càng sâu sắc. Sở Chính Việt kia bởi vì ban đầu không phải Thế tử, Sở Mi không dạy đọc sách, mà từ nhỏ đã ném hắn vào binh doanh rèn luyện. Kể từ đó, cảm tình của hắn cùng võ tướng bắc phiên càng sâu đậm. Lại thêm Tiên đế đau lòng Sở Mi, lại sợ bắc phiên không cam lòng dừng lại, không thể không trấn an bọn họ. Sau khi Sở Chính Việt nhận tước, Tiên đế lại trao danh hiệu bắc trấn phủ tư cho hắn.

Đến triều Chương Hợp, Sở Chính Việt càng thêm khó quản. Hắn không ở Vĩnh An, không có giao tình với người của triều đình, hơn nữa hắn đi theo một đám thô kệch cùng nhau lớn lên, được chỉ dạy phá phách cướp bóc. Từ năm đầu Chương Hợp, bởi vì hắn giữ chức bắc trấn phủ tư, nảy sinh mâu thuẫn với Giám Hành Viện ở phương bắc, từng mấy lần trói quan viên Giám Hành Viện lại đánh một trận, sau đó ném về triều.

Ương Tập Lệnh ở triều đình điều động các quan viên địa phương, mỗi lần chuyển công tác, chư quan viên vừa nghe đi Giám Hành Bắc Hải thì người người đều kêu cha gọi mẹ không muốn, trăm ngàn trăm kế chối từ đùn đẩy, khiến cho triều đình vô cùng nhức đầu.

Người như Sở Chính Việt, không đùa mưu mẹo gì với ngươi mà sẽ trực tiếp vô lại. Thấy người của Giám Hành Viện không vừa mắt thì đánh thẳng, Hoàng thượng phái người đi dạy dỗ hắn, hắn nghe xong thì cứ như đánh rắm vậy. Muốn xách hắn về kinh để giáo dục, hắn liền cáo ốm không đến, bắc phiên binh hùng tướng mạnh, mà hắn là tôn thất, ai có thể phái binh đi đánh hắn?

Sở Chính Việt năm nay hai mươi bảy tuổi, đến nay chưa xin lập Thế tử. Bắc Hải lục quận, nam bắc đều là cửa ải hiểm yếu, bên trong có bình nguyên rộng lớn, mặc dù khí hậu rét lạnh nhưng tài nguyên lại phong phú. Dưới quyền là một đám văn thần võ tướng, đều là tướng lĩnh tự bán mạng cho Sở Chính Việt từ đời trước, quyền lợi chia đều, vui buồn tương quan. Đã hợp thành thế lực ứng phó. Trong Tứ Phương Vương, kể ra thực lực của hắn hùng hậu nhất, cũng khó quản nhất.

Sở Hạo đưa một cái khăn qua, giữ lấy bình rượu, đổ đầy rượu nóng vào chén, hơi nóng theo gió mà tản ra, mùi rượu xông vào mũi. Con mắt hắn tối đen, khóe miệng cong lên, nụ cười đúng là ấm áp. Không phải vì thời cuộc dần dần sáng sủa, mà là bởi vì —— cuối cùng hắn cũng đợi được một cái lý do đi Uyển Thành!
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện