Khi bóng đen kéo tới cùng những đợt sóng lớn và dường như cùng cả tiếng rống của quái thú, Thiệu kéo Thủy Căn bơi thật nhanh về phía trước. Thuỷ Căn xụi lơ, chỉ còn biết trừng mắt nhìn xem thứ đang nổi lên ấy rốt cuộc là quái vật gì.
Giữa bọt nước tung tóe, thứ đó cuối cùng cũng lộ ra bộ mặt thật. Thì ra đó là một cây cột hình trụ đường kính tới hai mét, lao thẳng lên từ đáy nước, nếu nhìn không kỹ, có khi còn tưởng là Đông Hải Thần Châm của con khỉ họ Tôn ấy chớ!
Trên thân cột khắc hình một ngưu đầu trấn tà thú đã từng thấy ở nghĩa địa Quân Sơn, con mắt mở to như cái chuông đồng đang ngạo nghễ coi thường bọn họ. Và tiếng rống vừa rồi hình như phát ra từ chính cái mồm đang ngoác ra của ngưu đầu.
Thiệu sửng sốt nhìn trấn tà thú, dường như hắn cũng không đoán ra được cây cột này dùng để trấn áp thứ gì.
Mặt hồ vốn tĩnh lặng không một gợn sóng, có lẽ do người rơi xuống đã khuấy động nước hồ, kích khởi then chốt nào đó dưới đáy nước, và khiến cây cột vọt thẳng lên. Trên đỉnh cây cột khảm một cái hộp tám cạnh, không rõ được làm bằng gì. Dưới ánh nước khúc xạ, mặt hộp tỏa ra những luồng sáng lấp lánh rực rỡ.
Phùng thịt nướng cưỡi “bè da” ở gần cây cột nhất, vừa thấy cây cột mọc lên một phát là vọt tới liền, cố sức móc cái hộp nọ ra, rồi quay trở lại cái “bè da”. Sau đó, hắn dùng bộ da người gói bản thân lại như thể quấn nem, và dùng băng tàm bịt kín các kẽ hở. Cả bộ da bao bọc lấy Phùng thịt nướng như cái kén tằm khổng lồ, bồng bềnh trên mặt nước.
Thuỷ Căn buồn bực nhìn Phùng cục trưởng chuẩn bị, cây cột thiếu mất cái hộp bắt đầu rung chuyển và từ từ hạ xuống.
Và rồi, miệng ngưu đầu trấn tà thú lại ngoác rộng hơn, từ trong đó phun ra rất nhiều những sợi dây. Sau khi rơi xuống hồ, những sợi dây nọ nhanh chóng hút nước và trương phồng lên như thể hoàng hoa thái(1) phơi khô.
Thuỷ Căn chẳng thấy tò mò tẹo nào, chỉ ra sức gào lên với thằng em của cậu: “Ngươi bơi nhanh lên một chút coi!”
Thiệu vừa hổn hển kéo cậu đi, vừa dữ dằn nói: “Ta phải kéo cái đồ ăn hại nhà ngươi thì làm sao mà bơi nhanh được hả?” Những sợi dây vừa trương phình lên dập dềnh trong nước chưa tới một phút, đã lập tức bắn về phía bọn họ như những mũi tên, phần lớn trong số đó là lao về phía Thủy Căn.
Thiệu biết rõ rằng mùi máu tươi từ vết thương của Thuỷ Căn đã mời gọi những sợi dây dường như không nhìn thấy được này tới. Thiệu hơi nhún người, rồi vung tay lên ném Thủy Căn sang bờ hồ bên kia.
Những sợi dây còn lại bèn đánh về phía Thiệu, Quảng Thắng và Phùng kén nhộng.
Bởi vì cái kén khổng lồ sát cây cột nhất, vài sợi dây đã lẻn đến gần nó rồi. Từ một đầu của sợi dây nhô ra một cái móc sắc lẻm bấu vào kén nhộng, đầu dây còn lại thì mở ra một cái miệng đầy răng ngoạm vào cái kén.
Chỉ có điều, những sợi tơ gặp nước trở nên cực kỳ bền chắc, tạm thời không thể cắn rách. Nhưng Thiệu lại không được may mắn như vậy, vài sợi dây đã bấu được vào người Thiệu, và bắt đầu ra sức cắn xé da thịt hắn.
Máu Thiệu có chứa linh lực, có lực sát thương rất lớn đối với oán linh, nhưng dường như lại chẳng có tác dụng gì với loài nhuyễn trùng này. Chỉ trong chốc lát, càng lúc càng nhiều những sợi dây ùn ùn kéo về phía Thiệu.
Về phần Quảng Thắng, suy cho cùng thì gã cũng là kẻ kiếm sống bằng đao kiếm, từ khi mấy tên thuộc hạ biến thành “bè da”, gã đã nhanh chóng vùng ra khỏi nỗi sửng sốt, và cố bơi vào bờ. Mặc dù đã cách bờ rất gần rồi, nhưng gã vẫn bị mấy con trùng sợi cắn vào bắp đùi.
Máu đặc lập tức tản ra xung quanh, Quảng Thắng kêu lên một tiếng thảm thiết. Thuỷ Căn nhoài người ra, vươn tay về phía hắn, và kéo hắn lên bờ.
Sau khi hút no máu, những sợi dây nhanh chóng lột xác, thành nhộng, rồi thoát xác. Thuỷ Căn sững sờ nhìn, cái thứ to bằng bắp tay người lớn đang đập cánh phành phạch trên mặt đất kia, nhìn thế nào cũng thấy y chang con muỗi cỡ bự.
Vậy tức là, sợi dây đó chính là ấu trùng của muỗi khổng lồ – bọ gậy? Đúng lúc này, Thiệu bơi về đến bờ với một thân đầy máu, lôi mấy con bọ gậy đang bắt đầu lột xác trên người hắn xuống. Rồi triệu một đám ma trơi tới thiêu trụi những con muỗi vừa mọc cánh đang muốn bay lên.
Con muỗi khổng lồ vẫn còn vặn vẹo thân mình giữa ngọn lửa, trong sự vùng vẫy của chúng, cái vòi đầy răng cưa thậm chí còn đâm thủng vài cái lỗ trên nền đá nham thạch.
Thiệu cau mày nói: “Những con bọ gậy này là ấu trùng của muỗi xương khô vùng Nam Cương. Khi còn là bọ gậy thì còn dễ đối phó, chúng chỉ ăn da thịt động vật, cũng không thể gây chết người. Tới khi trưởng thành, chúng chuyên hút não người và động vật, hộp sọ cho dù cứng đến đâu cũng có thể bị chúng đục thủng.”
Nói cách khác, vừa nãy nếu Thiệu không đến kịp, đầu cậu sẽ bị muỗi khổng lồ chọc lỗ hút, như một trái dừa tươi ngon vậy đó.
Hồ nước phía sau bọn họ lại “ầm ầm” rung chuyển, ở giữa hồ, nơi cây cột vừa biến mất lại xuất hiện một xoáy nước sâu hun hút, cuốn Phùng kén nhộng vào cái động đen ngòm dưới đáy hồ, không rõ là trôi đi đâu mất tiêu rồi.
Từ vách núi hai bên bờ hồ phun trào hai cột nước vĩ đại và đổ đầy hồ nước. Chỉ trong phút chốc, hồ nước lại khôi phục vẻ tĩnh lặng vốn có, và còn lại vô số bọ gậy đang móc chặt vào đáy hồ và vách núi nên không bị cuốn trôi.
“Chết tiệt, tí nữa còn có chuồn chuồn khổng lồ không vậy? Định làm liên hoan côn trùng đấy hở?” Quảng Thắng bụm chặt bắp đùi bị thương, hùng hùng hổ hổ chửi bới.
Thiệu không hề đáp lời hắn, tiếp tục giữa lửa ma trơi và đi về phía trước.
Thuỷ Căn dìu Quảng Thắng dậy, đi theo Thiệu. Nhìn thấy vết thương của Thiệu còn đang chảy máu, cậu không kìm lòng được mà hỏi: “Ngươi… Ngươi không sao chứ?”
Cậu đang nói dở thì đã thấy vết thương của Thiệu chầm chậm tự khép lại. Coi bộ sau chuyến đi tới thôn Bốc Vu, người được lợi nhất chính là Thanh Hà Vương, linh lực tăng lên rất nhiều, tiết kiệm được không ít tiền thuốc men đấy nhỉ.
Đại ca Quảng Thắng thấy mà kinh hoàng, run bần bật hỏi: “Các… các ngươi là cái quái gì vậy?”
Câu hỏi này đúng là quá coi thường lễ nghi hoàng gia rồi!
Thanh Hà Vương quay đầu, âm hiểm nhìn Quảng Thắng, trong cái hang bí mật biệt lập với thế giới bên ngoài này, giết người chỉ là chuyện nhỏ! Xem ra, Thiệu đã động sát tâm rồi.
Thuỷ Căn cũng không hẳn là có thiện cảm với vị đại ca này, nhưng dẫu sao, cậu vẫn cảm thấy con người Quảng Thắng cũng rất nghĩa khí, bèn cuống quít giảng hòa: “Ừ thì, nhiều người cũng là nhiều sức, ngươi nói có đúng không nào?”
Thiệu trừng cậu một cái, rồi ngoảnh mặt đi, Thuỷ Căn bấy giờ mới nhỏ giọng nói: “Ông anh, nói chuyện với thứ ‘không phải người’ thì phải cẩn thận chứ. Cái vị đằng trước chúng ta đây, còn lợi hại hơn muỗi khổng lồ nhiều, hút não người không cần ống hút luôn ấy chớ!”
Quảng Thắng cũng là một kẻ tuấn kiệt thức thời, hiểu rõ nguyên tác ‘nhìn nhiều nói ít’. Dù đầy bụng thắc mắc, gã vẫn ngậm miệng ngay tắp lự, đẩy Thuỷ Căn ra, rồi khập khễnh theo sát Thiệu.
Đi được một lúc, bọn họ tới một thạch thất. Cánh cửa là một khối lớn như thạch anh.
Khi tới trước cửa, Thiệu dừng lại: “Nơi này có người đã đặt kết giới.”
Và khi hắn vươn tay ra, cánh cửa đang khép chặt nọ dường như tự động tiêu tan, để Thiệu dễ dàng vượt qua. Sau khi hắn tiến vào, Thuỷ Căn cũng đi vào mà không gặp trở ngại gì, thế nhưng chẳng biết vì sao, Quảng Thắng lại bị chặn lại ngoài thạch thất, mặc cho gã có xô đẩy mạnh đến thế nào đi chăng nữa, cũng vẫn không thể vào được.
Dường như đã từng có người sống trong thạch thất này, có một cái bàn làm từ gốc cây, trên chiếc giường theo tập quán của người Tiên Ti vẫn còn trải đầy da thú. Thậm chí trên vách tường vẫn còn treo vài bức đan thanh đã ố vàng. Trên nóc tủ, có vài thanh đao, cái dài cái ngắn.
Còn Thiệu thì sững người như bị điểm huyệt, nhìn gian phòng bằng ánh mắt vô cùng kinh ngạc.
“Làm sao vậy?” Thuỷ Căn dè dặt hỏi.
“…Cách bài trí ở đây với tẩm cung trước kia giống nhau như đúc vậy…” Lông mày Thiệu nhăn tít lại, khó chịu đáp lời.
Nghe thấy thế, Thuỷ Căn cũng tò mò đánh giá tẩm cung của Thanh Hà Vương. Quý tộc man di đúng là không hưởng thụ nhiều như người Hán, đường đường là tẩm cung của hoàng tử mà cũng thật đơn sơ! Trông hệt như một trướng bồng vậy.
Thuỷ Căn đã mệt muốn chết rồi, sau khi đưa tay sờ soạng thử mấy cái, cậu đặt mông nằm thẳng cẳng trên chiếc giường mềm mại, mùi da thú xộc vào mũi cậu.
Đột nhiên Thuỷ Căn cứng đờ người lại, bởi cậu chợt nhận ra, mùi vị này, màu sắc da thú này, mái ngói này, chúng mới giống trong cảnh mộng xuân kích tình ngày trước làm sao.
Bấy giờ, Thiệu mới nhìn thấy Thuỷ Căn nằm trên giường với sắc mặt ửng hồng, thần thái kỳ lạ, hắn hơi hơi nhếch khoé miệng: “Ngày ấy, ngươi lúc nào mò tới tẩm cung của ta lúc nửa đêm, cũng giống như bây giờ mà nằm ở trên giường chủ động dang rộng hai chân, cầu ta thao ngươi vậy đó.”
.
(1) Hoàng hoa còn gọi là hoa hiên, kim trâm thái, huyền thảo, lêlô, lộc thông. Tên khoa học Hemerocallis fulva, thuộc họ Hành tỏi Liliaceae. Rễ hoa hiên – hoàng hoa thái căn (Radix Hemerocallitis) là rễ và thân rễ phơi khô của cây. Hoàng hoa là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ rất ngắn, có rễ mẫm nhưng nhỏ. Lá hình sợi, dài 30-35cm, rộng 2,5cm hay hơn, trên mặt có nhiều mạch. Trục mang hoa cao bằng lá, phía trên phân nhánh, có 6-12 hoa. Hoa to, màu vàng đỏ, có mùi thơm, tràng hoa hình phễu, phía trên xẻ thành 6 phiến. Có 6 nhị, bầu có 3 ngăn. Quả hình 3 cạnh, hạt bong, màu đen. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.đây là cây hoađây là hoàng hoa thái ~ mấy con trùng trong truyện giống cái này này
Giữa bọt nước tung tóe, thứ đó cuối cùng cũng lộ ra bộ mặt thật. Thì ra đó là một cây cột hình trụ đường kính tới hai mét, lao thẳng lên từ đáy nước, nếu nhìn không kỹ, có khi còn tưởng là Đông Hải Thần Châm của con khỉ họ Tôn ấy chớ!
Trên thân cột khắc hình một ngưu đầu trấn tà thú đã từng thấy ở nghĩa địa Quân Sơn, con mắt mở to như cái chuông đồng đang ngạo nghễ coi thường bọn họ. Và tiếng rống vừa rồi hình như phát ra từ chính cái mồm đang ngoác ra của ngưu đầu.
Thiệu sửng sốt nhìn trấn tà thú, dường như hắn cũng không đoán ra được cây cột này dùng để trấn áp thứ gì.
Mặt hồ vốn tĩnh lặng không một gợn sóng, có lẽ do người rơi xuống đã khuấy động nước hồ, kích khởi then chốt nào đó dưới đáy nước, và khiến cây cột vọt thẳng lên. Trên đỉnh cây cột khảm một cái hộp tám cạnh, không rõ được làm bằng gì. Dưới ánh nước khúc xạ, mặt hộp tỏa ra những luồng sáng lấp lánh rực rỡ.
Phùng thịt nướng cưỡi “bè da” ở gần cây cột nhất, vừa thấy cây cột mọc lên một phát là vọt tới liền, cố sức móc cái hộp nọ ra, rồi quay trở lại cái “bè da”. Sau đó, hắn dùng bộ da người gói bản thân lại như thể quấn nem, và dùng băng tàm bịt kín các kẽ hở. Cả bộ da bao bọc lấy Phùng thịt nướng như cái kén tằm khổng lồ, bồng bềnh trên mặt nước.
Thuỷ Căn buồn bực nhìn Phùng cục trưởng chuẩn bị, cây cột thiếu mất cái hộp bắt đầu rung chuyển và từ từ hạ xuống.
Và rồi, miệng ngưu đầu trấn tà thú lại ngoác rộng hơn, từ trong đó phun ra rất nhiều những sợi dây. Sau khi rơi xuống hồ, những sợi dây nọ nhanh chóng hút nước và trương phồng lên như thể hoàng hoa thái(1) phơi khô.
Thuỷ Căn chẳng thấy tò mò tẹo nào, chỉ ra sức gào lên với thằng em của cậu: “Ngươi bơi nhanh lên một chút coi!”
Thiệu vừa hổn hển kéo cậu đi, vừa dữ dằn nói: “Ta phải kéo cái đồ ăn hại nhà ngươi thì làm sao mà bơi nhanh được hả?” Những sợi dây vừa trương phình lên dập dềnh trong nước chưa tới một phút, đã lập tức bắn về phía bọn họ như những mũi tên, phần lớn trong số đó là lao về phía Thủy Căn.
Thiệu biết rõ rằng mùi máu tươi từ vết thương của Thuỷ Căn đã mời gọi những sợi dây dường như không nhìn thấy được này tới. Thiệu hơi nhún người, rồi vung tay lên ném Thủy Căn sang bờ hồ bên kia.
Những sợi dây còn lại bèn đánh về phía Thiệu, Quảng Thắng và Phùng kén nhộng.
Bởi vì cái kén khổng lồ sát cây cột nhất, vài sợi dây đã lẻn đến gần nó rồi. Từ một đầu của sợi dây nhô ra một cái móc sắc lẻm bấu vào kén nhộng, đầu dây còn lại thì mở ra một cái miệng đầy răng ngoạm vào cái kén.
Chỉ có điều, những sợi tơ gặp nước trở nên cực kỳ bền chắc, tạm thời không thể cắn rách. Nhưng Thiệu lại không được may mắn như vậy, vài sợi dây đã bấu được vào người Thiệu, và bắt đầu ra sức cắn xé da thịt hắn.
Máu Thiệu có chứa linh lực, có lực sát thương rất lớn đối với oán linh, nhưng dường như lại chẳng có tác dụng gì với loài nhuyễn trùng này. Chỉ trong chốc lát, càng lúc càng nhiều những sợi dây ùn ùn kéo về phía Thiệu.
Về phần Quảng Thắng, suy cho cùng thì gã cũng là kẻ kiếm sống bằng đao kiếm, từ khi mấy tên thuộc hạ biến thành “bè da”, gã đã nhanh chóng vùng ra khỏi nỗi sửng sốt, và cố bơi vào bờ. Mặc dù đã cách bờ rất gần rồi, nhưng gã vẫn bị mấy con trùng sợi cắn vào bắp đùi.
Máu đặc lập tức tản ra xung quanh, Quảng Thắng kêu lên một tiếng thảm thiết. Thuỷ Căn nhoài người ra, vươn tay về phía hắn, và kéo hắn lên bờ.
Sau khi hút no máu, những sợi dây nhanh chóng lột xác, thành nhộng, rồi thoát xác. Thuỷ Căn sững sờ nhìn, cái thứ to bằng bắp tay người lớn đang đập cánh phành phạch trên mặt đất kia, nhìn thế nào cũng thấy y chang con muỗi cỡ bự.
Vậy tức là, sợi dây đó chính là ấu trùng của muỗi khổng lồ – bọ gậy? Đúng lúc này, Thiệu bơi về đến bờ với một thân đầy máu, lôi mấy con bọ gậy đang bắt đầu lột xác trên người hắn xuống. Rồi triệu một đám ma trơi tới thiêu trụi những con muỗi vừa mọc cánh đang muốn bay lên.
Con muỗi khổng lồ vẫn còn vặn vẹo thân mình giữa ngọn lửa, trong sự vùng vẫy của chúng, cái vòi đầy răng cưa thậm chí còn đâm thủng vài cái lỗ trên nền đá nham thạch.
Thiệu cau mày nói: “Những con bọ gậy này là ấu trùng của muỗi xương khô vùng Nam Cương. Khi còn là bọ gậy thì còn dễ đối phó, chúng chỉ ăn da thịt động vật, cũng không thể gây chết người. Tới khi trưởng thành, chúng chuyên hút não người và động vật, hộp sọ cho dù cứng đến đâu cũng có thể bị chúng đục thủng.”
Nói cách khác, vừa nãy nếu Thiệu không đến kịp, đầu cậu sẽ bị muỗi khổng lồ chọc lỗ hút, như một trái dừa tươi ngon vậy đó.
Hồ nước phía sau bọn họ lại “ầm ầm” rung chuyển, ở giữa hồ, nơi cây cột vừa biến mất lại xuất hiện một xoáy nước sâu hun hút, cuốn Phùng kén nhộng vào cái động đen ngòm dưới đáy hồ, không rõ là trôi đi đâu mất tiêu rồi.
Từ vách núi hai bên bờ hồ phun trào hai cột nước vĩ đại và đổ đầy hồ nước. Chỉ trong phút chốc, hồ nước lại khôi phục vẻ tĩnh lặng vốn có, và còn lại vô số bọ gậy đang móc chặt vào đáy hồ và vách núi nên không bị cuốn trôi.
“Chết tiệt, tí nữa còn có chuồn chuồn khổng lồ không vậy? Định làm liên hoan côn trùng đấy hở?” Quảng Thắng bụm chặt bắp đùi bị thương, hùng hùng hổ hổ chửi bới.
Thiệu không hề đáp lời hắn, tiếp tục giữa lửa ma trơi và đi về phía trước.
Thuỷ Căn dìu Quảng Thắng dậy, đi theo Thiệu. Nhìn thấy vết thương của Thiệu còn đang chảy máu, cậu không kìm lòng được mà hỏi: “Ngươi… Ngươi không sao chứ?”
Cậu đang nói dở thì đã thấy vết thương của Thiệu chầm chậm tự khép lại. Coi bộ sau chuyến đi tới thôn Bốc Vu, người được lợi nhất chính là Thanh Hà Vương, linh lực tăng lên rất nhiều, tiết kiệm được không ít tiền thuốc men đấy nhỉ.
Đại ca Quảng Thắng thấy mà kinh hoàng, run bần bật hỏi: “Các… các ngươi là cái quái gì vậy?”
Câu hỏi này đúng là quá coi thường lễ nghi hoàng gia rồi!
Thanh Hà Vương quay đầu, âm hiểm nhìn Quảng Thắng, trong cái hang bí mật biệt lập với thế giới bên ngoài này, giết người chỉ là chuyện nhỏ! Xem ra, Thiệu đã động sát tâm rồi.
Thuỷ Căn cũng không hẳn là có thiện cảm với vị đại ca này, nhưng dẫu sao, cậu vẫn cảm thấy con người Quảng Thắng cũng rất nghĩa khí, bèn cuống quít giảng hòa: “Ừ thì, nhiều người cũng là nhiều sức, ngươi nói có đúng không nào?”
Thiệu trừng cậu một cái, rồi ngoảnh mặt đi, Thuỷ Căn bấy giờ mới nhỏ giọng nói: “Ông anh, nói chuyện với thứ ‘không phải người’ thì phải cẩn thận chứ. Cái vị đằng trước chúng ta đây, còn lợi hại hơn muỗi khổng lồ nhiều, hút não người không cần ống hút luôn ấy chớ!”
Quảng Thắng cũng là một kẻ tuấn kiệt thức thời, hiểu rõ nguyên tác ‘nhìn nhiều nói ít’. Dù đầy bụng thắc mắc, gã vẫn ngậm miệng ngay tắp lự, đẩy Thuỷ Căn ra, rồi khập khễnh theo sát Thiệu.
Đi được một lúc, bọn họ tới một thạch thất. Cánh cửa là một khối lớn như thạch anh.
Khi tới trước cửa, Thiệu dừng lại: “Nơi này có người đã đặt kết giới.”
Và khi hắn vươn tay ra, cánh cửa đang khép chặt nọ dường như tự động tiêu tan, để Thiệu dễ dàng vượt qua. Sau khi hắn tiến vào, Thuỷ Căn cũng đi vào mà không gặp trở ngại gì, thế nhưng chẳng biết vì sao, Quảng Thắng lại bị chặn lại ngoài thạch thất, mặc cho gã có xô đẩy mạnh đến thế nào đi chăng nữa, cũng vẫn không thể vào được.
Dường như đã từng có người sống trong thạch thất này, có một cái bàn làm từ gốc cây, trên chiếc giường theo tập quán của người Tiên Ti vẫn còn trải đầy da thú. Thậm chí trên vách tường vẫn còn treo vài bức đan thanh đã ố vàng. Trên nóc tủ, có vài thanh đao, cái dài cái ngắn.
Còn Thiệu thì sững người như bị điểm huyệt, nhìn gian phòng bằng ánh mắt vô cùng kinh ngạc.
“Làm sao vậy?” Thuỷ Căn dè dặt hỏi.
“…Cách bài trí ở đây với tẩm cung trước kia giống nhau như đúc vậy…” Lông mày Thiệu nhăn tít lại, khó chịu đáp lời.
Nghe thấy thế, Thuỷ Căn cũng tò mò đánh giá tẩm cung của Thanh Hà Vương. Quý tộc man di đúng là không hưởng thụ nhiều như người Hán, đường đường là tẩm cung của hoàng tử mà cũng thật đơn sơ! Trông hệt như một trướng bồng vậy.
Thuỷ Căn đã mệt muốn chết rồi, sau khi đưa tay sờ soạng thử mấy cái, cậu đặt mông nằm thẳng cẳng trên chiếc giường mềm mại, mùi da thú xộc vào mũi cậu.
Đột nhiên Thuỷ Căn cứng đờ người lại, bởi cậu chợt nhận ra, mùi vị này, màu sắc da thú này, mái ngói này, chúng mới giống trong cảnh mộng xuân kích tình ngày trước làm sao.
Bấy giờ, Thiệu mới nhìn thấy Thuỷ Căn nằm trên giường với sắc mặt ửng hồng, thần thái kỳ lạ, hắn hơi hơi nhếch khoé miệng: “Ngày ấy, ngươi lúc nào mò tới tẩm cung của ta lúc nửa đêm, cũng giống như bây giờ mà nằm ở trên giường chủ động dang rộng hai chân, cầu ta thao ngươi vậy đó.”
.
(1) Hoàng hoa còn gọi là hoa hiên, kim trâm thái, huyền thảo, lêlô, lộc thông. Tên khoa học Hemerocallis fulva, thuộc họ Hành tỏi Liliaceae. Rễ hoa hiên – hoàng hoa thái căn (Radix Hemerocallitis) là rễ và thân rễ phơi khô của cây. Hoàng hoa là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ rất ngắn, có rễ mẫm nhưng nhỏ. Lá hình sợi, dài 30-35cm, rộng 2,5cm hay hơn, trên mặt có nhiều mạch. Trục mang hoa cao bằng lá, phía trên phân nhánh, có 6-12 hoa. Hoa to, màu vàng đỏ, có mùi thơm, tràng hoa hình phễu, phía trên xẻ thành 6 phiến. Có 6 nhị, bầu có 3 ngăn. Quả hình 3 cạnh, hạt bong, màu đen. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.đây là cây hoađây là hoàng hoa thái ~ mấy con trùng trong truyện giống cái này này
Danh sách chương