Nhất tướng công thành vạn cốt khô, đằng sau những bức tranh công thần treo cao trên Hoàng Kim đài và Kỳ Lân điện, có những ánh lửa chập chờn lay dộng, có vô số vong hồn khóc lóc thét gào.
(Nhất tướng công thành vạn cốt khô: thành công của một vị tướng đều phải đánh đổi bằng tính mạng của hàng vạn binh sĩ.)
Phó Thâm than thở: “Đúng là tạo nghiệt.”
Đoàn Quy Hồng suýt nữa tức ngã ngửa, ông cả giận nói: “Hai phe đối chọi, ngươi không chết thì ta vong, ngươi cảm thấy bọn chúng đáng thương, thế sao không nghĩ đến những dân chúng vô tội bỏ mạng dưới tay Thát tử! Ngươi mềm yếu như vậy, tương lai sao có thể làm đại sự được!”
“Ồ?” Phó Thâm kéo dài giọng, “Bảo vệ quốc gia, người không phạm ta ta không phạm người, chẳng phải đã làm được rồi sao? Vương gia đang nói tới đại sự gì vậy?”
“Ngươi!” Đoàn Quy Hồng nghẹn lời, chỉ tiếc rèn sắt chẳng thành thép, tức giận chỉ vào mũi y mà mắng: “Ăn cháo đá bát, hoàng thượng hận không thể khiến ngươi chết ở ải Thanh Sa mà ngươi còn muốn thay lão thủ vệ biên cương? Dù trấn giữ một phương, tự lập làm vương cũng còn hơn đứng dưới trướng lão, ngươi có hiểu hay không?!”
“Trấn giữ một phương, tự lập làm vương.” Phó Thâm lặp lại tám chữ này, “Giống như vương gia sao?”
Y hỏi một câu vô dụng rồi thẳng thắn nói tiếp: “Xứ Tây Nam trời cao hoàng đế xa, bách tính các tộc sống trộn lẫn, độ trung thành với trung ương có hạn, ngài ở kinh doanh Tây Nam nhiều năm, cây to rễ sâu, dù hoàng thượng phái người đến kiềm hãm cũng sẽ bị ngài dễ dàng giải quyết. Ở thành Quỳ Châu, ta thường thấy trong quán xá ven đường có khách thương dị tộc An Nam, Chân Tịch, bao năm qua Tây Nam thông thương vãng lai với ngoại bang, thu nhập chắc chắn thừa sức cung cấp cho quân đội Tây Nam nhỉ?”
(Trời cao hoàng đế xa: nghĩa là ở nơi xa vắng thì không đạt được quyền lực bề trên.)
Sắc mặt Đoàn Quy Hồng hơi thay đổi.
“Càng chưa nói đến cái thứ thần chết gì đó trong tay ngài,” Phó Thâm nói, “Làm ăn một vốn bốn lời. Nếu thật sự mở sạp hàng ở Giang Nam, vàng ròng bạc trắng sẽ theo Trường Giang chảy ngược vào trong túi của lão gia ngài, đừng nói là tự lập làm vương, lúc đó dù ngài có muốn tự lập làm đế, cũng chẳng ai ngăn cản được ngài.”
Đoàn Quy Hồng lạnh lùng nói: “Nói bậy nói bạ.”
Phó Thâm trông thì có vẻ đã nắm chắc trong lòng, song kỳ thực không phải vậy, y biết Đoàn Quy Hồng nể tình trưởng bối nên mới không ra tay với mình, nhưng Tây Bình quận vương hành sự quỷ quái, Phó Thâm cũng không đoán được ông ta rốt cuộc muốn làm gì. Nhỡ may ông ta mưu đồ tạo phản, còn nhất định phải kéo Phó Thâm xuống nước cùng, vậy thì sẽ khó lắm đây.
Phó Thâm suy nghĩ một chút rồi nói: “Vương gia vừa kể cho ta chuyện cũ thảo nguyên, nói nhị thúc từng dùng cái thần chết gì gì đó khiến A Lạp Mộc bộ bị diệt sạch. Vậy sao sau này khi trấn giữ Yến Châu, ông ấy không dùng chiêu này với người Chá?”
Đoàn Quy Hồng ngẩn ra vì câu hỏi của y, sau một hồi chần chừ mới nói: “Khi Trọng Ngôn ở Bắc Yến thì bọn ta đang ở Tây Nam, nên cũng không biết.”
Phó Thâm gật đầu: “Ồ, bởi vì ngài ‘đang ở Tây Nam’.”
Đoàn Quy Hồng nhận ra sự ám chỉ trong mấy chữ nhấn giọng của y, trong khoảnh khắc thậm chí có loại ảo giác như mọc gai ở sau lưng, cơ bắp toàn thân đều căng cứng.
“Vương gia tốn cả buổi trời ở đây với ta, thế mà chẳng có lấy một câu nói thật,” Phó Thâm lắc đầu, không biết là đang cười ai, “Nếu ngài không nói rõ ngọn nguồn cho ta, vậy để ta nói hộ ngài đi.”
“Tiên phụ và tiên thúc mất sớm, ta còn chưa kịp rèn luyện trong quân cùng bọn họ được bao lâu thì đã bị ép đến chiến trường Bắc Cương. Nói ta không giống cha quả thực không sai, ta chẳng hề giống ông ấy chút nào. Ngoại trừ chút da lông thô thiển học được từ thúc phụ, cái bản tính nóng nảy của ta đều hình thành từ bảy năm ở Bắc Cương.”
Y thu lại nụ cười: “Cho nên vương gia ạ, đừng hi vọng ta nghe một câu chuyện là có thể biến thành ‘người nhà họ Phó’ như kỳ vọng của ngài. Đôi tay ta từng chém vô số người Man, chưa bao giờ vọng tưởng chết rồi có thể chuyển sinh cực lạc, phải xuống địa ngục thì sẽ xuống địa phục, người khác cũng như vậy, ‘Xác chết hai người, máu chảy năm bước’ là đủ rồi, kẻ nào tạo nghiệt thì kẻ ấy gặp báo ứng, kéo theo người không liên quan làm gì?”[1]
Đoàn Quy Hồng nói: “Vì bản thân lão ta mà khiến trung lương nuốt hận, cho dù có gặp báo ứng thì cũng chẳng đủ trả lại nghiệt mà lão tạo ra.”
Phó Thâm không lập tức tiếp lời, y im lặng chốc lát, mới thấp giọng than thở: “Vương gia…… Lê dân có tội gì.”
Đoàn Quy Hồng cũng trầm mặc.
Thiên tử giận dữ, xác chết trăm vạn, máu chảy ngàn dặm —— Nhưng trăm vạn người chết oan đó có lỗi lầm gì đâu? Những binh lính chết ở ải Thanh Sa, những thường dân chết dưới tay Thuần Dương đạo nhân, những dân chúng vô tội chết vì Thu Dạ Bạch ở thôn Khê Sơn huyện Quảng Phong…. Bọn họ vì cớ gì mà phải chết?
Ông trời không thuận ý thì lũ hạn châu chấu, người bề trên không thuận ý thì đồng hoang phơi xương trắng, ngàn dặm chẳng tiếng gà[2]. Thứ dân nhỏ bé, nuôi sống gia đình đã là không dễ, đầu đội bao tầng trời, nửa cuộc đời gian lao, chỉ cần một tai họa bất ngờ là có thể hủy diệt tất cả.
Thời điểm mạng người quý giá, một cơn giận là có thể khiến trăm vạn người máu chảy xác trôi, thời điểm mạng người rẻ mạt, thì y chính là một trong trăm vạn người đó.
Nhờ đầu thai tốt, Phó Thâm không trở thành “một người trong vạn người” kia, nhưng y cũng không muốn làm kẻ “vạn dặm mới có một”, giữa giết người và bị giết, y muốn đi con đường thứ ba.
“Kính Uyên.” Đoàn Quy Hồng bỗng lên tiếng.
Bấy giờ ông ta không giận dữ, cũng chẳng trách cứ, chỉ bình thản gọi tên y, như thể cuối cùng cũng thu lại lớp vỏ ngụy trang, lộ ra bên trong cứng rắn lạnh lẽo như bàn thạch.
“‘Lê dân có tội gì’. Câu này, thúc phụ ngươi cũng từng nói.”
Năm Nguyên Thái thứ tư, Phó Đình Tín bị thương, Đoàn Quy Hồng đi tìm thuốc giải để trị độc cho ông, đồng thời, Đoàn Quy Hồng còn biết được chỗ đáng sợ của loại thực vật này từ vu y Nam Cương. Đúng lúc chiến sự biên quan căng thẳng, quân Hán và kỵ binh Thát tộc bất phân thắng bại, Đoàn Quy Hồng muốn dùng kế đánh úp để phá giải cục diện bế tắc, bèn tìm Phó Đình Tín để thương lượng, muốn dùng loại thảo dược này để hủy diệt đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ, kết hợp thêm cả dịch bệnh, một khi hậu phương chao đảo, ắt hẳn có thể giáng một đòn mạnh cho Thát tộc.
Phó Đình Tín cảm thấy cách này quá tàn nhẫn thâm độc nên nhất quyết không đồng ý, Đoàn Quy Hồng đi tìm Phó Kiên, lại bị dạy bảo cho một trận. Ngay lúc ông ta liên tục gặp đả kích, cho rằng cách này là bất khả thi, Phó Đình Trung lại tìm tới ông ta, cả hai cùng nhau bí mật quyết định kế hoạch này.
Mùa xuân năm sau, đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ bị Thu Dạ Bạch xâm chiếm, dịch bệnh bùng phát, toàn bộ bộ tộc rơi vào khủng hoảng, Phó Đình Trung dẫn quân xuất kích, đại thắng kỵ binh Đông Thát ở núi Đại Thanh, quân Hán thậm chí còn thâm nhập phúc địa thảo nguyên, suýt nữa đánh hạ vương thành của người Đông Thát.
Sau trận chiến đó, khi Đoàn Quy Hồng đắc ý khoe khoang công trạng với Phó Đình Tín, Phó Đình Tín chỉ nói một câu “Lê dân có tội gì”.
Mùa thu cùng năm, Phó Kiên lâm bệnh ở Cam Châu. Trong lúc ốm đau, ông dâng một bản tấu lên cho triều đình, đề bạt Đoàn Quy Hồng làm tướng quân quân chinh phạt phía Tây, đi tới Tây Nam dẹp loạn.
Hành động này đến nay vẫn bị rất nhiều người cho là Phó Kiên bài trừ dị kỷ, muốn lưu quân quyền Bắc Yến quân cho con trai mình. Chỉ có bản thân Đoàn Quy Hồng tự biết, ngày ấy Phó Kiên gọi ông đến trước giường bệnh, bảo rằng mình chẳng sống được lâu nữa, lệnh cho ông phải ở trước giường tuyên thề, mang Thu Dạ Bạch về Tây Nam, trông giữ cẩn thận, tuyệt đối không được để một cây nào lọt vào Trung Nguyên.
Ông ngơ ngẩn nghe Phó Kiên nói: “Thiên hạ yên ổn, thịnh thế trăm năm, thành do tay con, bại do tay con. Mặc dù con không mang họ Phó, nhưng trong xương tủy lại là người nhà họ Phó chúng ta.”
“Ta chinh chiến tứ phương, đánh giặc suốt nửa đời, chỉ có một tâm nguyện chưa thành, đó là muốn ngắm nhìn nhân gian thái bình, bây giờ…… đành giao lại cho con.”
Lão tướng quân ban cho ông mệnh lệnh cuối cùng. Đoàn Quy Hồng rưng rưng dập đầu lạy ba lạy trước giường bệnh, sau khi tiễn đưa Phó Kiên, đợi mọi việc kết thúc, ông liền theo đại quân triều đình đi tới Tây Nam.
Từ khi Tây Nam bình định vào năm Nguyên Thái thứ sáu đến nay, ông đã canh giữ suốt hai mươi năm.
Trong hai mươi năm, Phó Đình Trung bị người Thát ám sát, Phó Đình Tín tử trận sa trường, Phó Thâm nhận lệnh xuất binh đến Bắc Cương giữa lúc nguy cấp, ông ở Tây Nam, nhưng chưa một ngày nào quên được cỏ úa cát vàng ngút ngàn nơi phương Bắc.
Mấy năm đầu Phó Thâm mới đến Bắc Cương, Đoàn Quy Hồng thấy chiến sự ngừng dần, phương Bắc trở về yên bình, còn tưởng rằng trải qua mười mấy năm trắc trở gập ghềnh, câu “Nhân gian thái bình” kia cuối cùng cũng thực hiện được.
Nhưng sau đó, ông phát hiện mình nghĩ lầm rồi.
Bắc Yến thiết kỵ truyền qua ba đời trong tay người nhà họ Phó, Nguyên Thái đế là người đầu tiên ngồi không yên.
Người nhà họ Phó đều chết sớm, Nguyên Thái đế thì lại là một hoàng đế sống lâu, ông ta trơ mắt nhìn người nhà họ Phó hết đời này đến đời khác tiếp nhận ấn soái, đi tới sa trường, Bắc Yến quân ngày càng hùng mạnh, chủ soái ngày càng trẻ tuổi, mà ông ta thì ngày càng già yếu. Quay đầu nhìn đám long tử long tôn của mình, chẳng có lấy một người kinh tài tuyệt diễm, xứng làm chủ của một trung hưng.
Cứ tiếp tục thế này, thì mười mấy năm sau, hai mươi mấy năm sau, thiên hạ này có còn là thiên hạ của nhà bọn họ hay không?
Trước khi Nguyên Thái đế lệnh cho Phó Đình Nghĩa kế thừa tước vị, đổi sang phong Phó Thâm làm Tĩnh Ninh hầu, Đoàn Quy Hồng đã cảm thấy hoàng thượng kiêng kỵ và đề phòng vị thống soái mới của Bắc Yến thiết kỵ.
Năm xưa Nguyên Thái đế và Phó Kiên quân thần tương đắc, là bởi vì triều đình bất ổn, chiến sự phương Bắc còn phải dựa vào ông; ưu đãi Phó Đình Trung và Phó Đình Tín rất nhiều, là bởi vì huynh đệ hai người đồng tâm hiệp lực, còn có Túc vương tham gia một phần trong đó; mà bây giờ ông ta dám liên tiếp ra tay với Phó Thâm, chỉ đơn giản là bắt nạt y còn trẻ dễ uốn nắn, mà Dĩnh quốc công hiện tại thì là một tên phế vật luôn muốn mọc cánh thành tiên, có xảy ra chuyện cũng chẳng giúp đỡ được gì.
Để phòng vạn nhất, Đoàn Quy Hồng phái Đỗ Lãnh đến bên cạnh Phó Thâm. Khi ý đồ của hoàng đế ngày một rõ ràng, Đoàn Quy Hồng rốt cuộc cũng thất vọng với cái gọi là “Nhân gian thái bình” rồi. Ông cuối cùng cũng hiểu, chỉ cần ngai vàng còn có người ngồi, thì người nhà họ Phó, và cả chính ông, sẽ vĩnh viễn chẳng thể nào thoát khỏi “thiên mệnh”.
“Thần chết say ngủ” bị phong giữ suốt hai mươi năm ở Tây Nam được người thủ vệ đánh thức, từ vùng duyên giang Kinh Sở chảy về phía Đông, cắm rễ trong núi non Giang Nam tựa như u linh, trải rộng trên đất những đóa hoa trắng tinh.
Tây Bình quận vương kể xong, chậm rãi thở ra khí đục mắc ứ trong lồng ngực, nói: “Ta giám thủ tự đạo, phụ lời phó thác, tương lai xuống dưới suối vàng, chẳng còn mặt mũi nào gặp lại Phó công nữa.”
(Giám thủ tự đạo: đánh cắp thứ mình canh giữ, trông coi.)
Là người đầu tiên mang họ khác được phong làm quận vương, vì một lời giao phó mơ hồ, mà cố thủ Tây thùy suốt hai mươi năm. Phó Thâm biết ông ta đã làm ra rất nhiều chuyện sai lầm, nhưng lại chẳng thể nào đứng ở vị trí cao hơn mà khiển trách ông.
Cũng như năm ấy Phó Đình Tín nói với Đoàn Quy Hồng “Lê dân có tội gì”, giờ đây đổi thành Phó Thâm, y cũng chỉ có thể nói một câu như vậy mà thôi.
Bởi vì y biết mình cũng chẳng vô tội.
Trên đời này tội danh khiến người ta bất đắc dĩ nhất, một là “Có lẽ có”, một là “Mang ngọc mắc tội”, một nữa là “Ta không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì ta mà chết.” (Mấy cái điển tích này mình đều từng chú thích, mấy bạn có thể search trong trang nhà mình để tìm nhé, mình lười cop lại quá =v=)
Phó Thâm chán chường nói: “Ta cũng chẳng có mặt mũi nào mà gặp ông ấy, hay là chúng ta cùng đến trước mộ ông ấy thắt cổ đi.”
Đoàn Quy Hồng không để ý đến lời trào phúng của y: “Nếu đã nói đến nước này rồi, vậy ta cũng cho người biết ngọn nguồn. Ngươi biết ta đang ở Tây Nam, xa ngoài tầm với, khó mà lập thành thế lực quy mô ở kinh doanh. Thuần Dương đạo nhân có thể đứng vững chân ở kinh thành, đều là nhờ một người nhiều lần giúp đỡ.”
Lòng Phó Thâm bỗng chùng xuống: “Là ai?”
✿Tác giả có lời muốn nói:
[1] 《Đường sư bất nhục sứ mệnh》trong sách giáo khoa cấp hai, vốn xuất xứ từ 《Chiến quốc sách》.
[2]《Cảo lý hành》của Tào Tháo.
Editor: Tình hình kiểu này chắc ko hoàn được trong tháng 10 đâu bà con ạ =_=.
(Nhất tướng công thành vạn cốt khô: thành công của một vị tướng đều phải đánh đổi bằng tính mạng của hàng vạn binh sĩ.)
Phó Thâm than thở: “Đúng là tạo nghiệt.”
Đoàn Quy Hồng suýt nữa tức ngã ngửa, ông cả giận nói: “Hai phe đối chọi, ngươi không chết thì ta vong, ngươi cảm thấy bọn chúng đáng thương, thế sao không nghĩ đến những dân chúng vô tội bỏ mạng dưới tay Thát tử! Ngươi mềm yếu như vậy, tương lai sao có thể làm đại sự được!”
“Ồ?” Phó Thâm kéo dài giọng, “Bảo vệ quốc gia, người không phạm ta ta không phạm người, chẳng phải đã làm được rồi sao? Vương gia đang nói tới đại sự gì vậy?”
“Ngươi!” Đoàn Quy Hồng nghẹn lời, chỉ tiếc rèn sắt chẳng thành thép, tức giận chỉ vào mũi y mà mắng: “Ăn cháo đá bát, hoàng thượng hận không thể khiến ngươi chết ở ải Thanh Sa mà ngươi còn muốn thay lão thủ vệ biên cương? Dù trấn giữ một phương, tự lập làm vương cũng còn hơn đứng dưới trướng lão, ngươi có hiểu hay không?!”
“Trấn giữ một phương, tự lập làm vương.” Phó Thâm lặp lại tám chữ này, “Giống như vương gia sao?”
Y hỏi một câu vô dụng rồi thẳng thắn nói tiếp: “Xứ Tây Nam trời cao hoàng đế xa, bách tính các tộc sống trộn lẫn, độ trung thành với trung ương có hạn, ngài ở kinh doanh Tây Nam nhiều năm, cây to rễ sâu, dù hoàng thượng phái người đến kiềm hãm cũng sẽ bị ngài dễ dàng giải quyết. Ở thành Quỳ Châu, ta thường thấy trong quán xá ven đường có khách thương dị tộc An Nam, Chân Tịch, bao năm qua Tây Nam thông thương vãng lai với ngoại bang, thu nhập chắc chắn thừa sức cung cấp cho quân đội Tây Nam nhỉ?”
(Trời cao hoàng đế xa: nghĩa là ở nơi xa vắng thì không đạt được quyền lực bề trên.)
Sắc mặt Đoàn Quy Hồng hơi thay đổi.
“Càng chưa nói đến cái thứ thần chết gì đó trong tay ngài,” Phó Thâm nói, “Làm ăn một vốn bốn lời. Nếu thật sự mở sạp hàng ở Giang Nam, vàng ròng bạc trắng sẽ theo Trường Giang chảy ngược vào trong túi của lão gia ngài, đừng nói là tự lập làm vương, lúc đó dù ngài có muốn tự lập làm đế, cũng chẳng ai ngăn cản được ngài.”
Đoàn Quy Hồng lạnh lùng nói: “Nói bậy nói bạ.”
Phó Thâm trông thì có vẻ đã nắm chắc trong lòng, song kỳ thực không phải vậy, y biết Đoàn Quy Hồng nể tình trưởng bối nên mới không ra tay với mình, nhưng Tây Bình quận vương hành sự quỷ quái, Phó Thâm cũng không đoán được ông ta rốt cuộc muốn làm gì. Nhỡ may ông ta mưu đồ tạo phản, còn nhất định phải kéo Phó Thâm xuống nước cùng, vậy thì sẽ khó lắm đây.
Phó Thâm suy nghĩ một chút rồi nói: “Vương gia vừa kể cho ta chuyện cũ thảo nguyên, nói nhị thúc từng dùng cái thần chết gì gì đó khiến A Lạp Mộc bộ bị diệt sạch. Vậy sao sau này khi trấn giữ Yến Châu, ông ấy không dùng chiêu này với người Chá?”
Đoàn Quy Hồng ngẩn ra vì câu hỏi của y, sau một hồi chần chừ mới nói: “Khi Trọng Ngôn ở Bắc Yến thì bọn ta đang ở Tây Nam, nên cũng không biết.”
Phó Thâm gật đầu: “Ồ, bởi vì ngài ‘đang ở Tây Nam’.”
Đoàn Quy Hồng nhận ra sự ám chỉ trong mấy chữ nhấn giọng của y, trong khoảnh khắc thậm chí có loại ảo giác như mọc gai ở sau lưng, cơ bắp toàn thân đều căng cứng.
“Vương gia tốn cả buổi trời ở đây với ta, thế mà chẳng có lấy một câu nói thật,” Phó Thâm lắc đầu, không biết là đang cười ai, “Nếu ngài không nói rõ ngọn nguồn cho ta, vậy để ta nói hộ ngài đi.”
“Tiên phụ và tiên thúc mất sớm, ta còn chưa kịp rèn luyện trong quân cùng bọn họ được bao lâu thì đã bị ép đến chiến trường Bắc Cương. Nói ta không giống cha quả thực không sai, ta chẳng hề giống ông ấy chút nào. Ngoại trừ chút da lông thô thiển học được từ thúc phụ, cái bản tính nóng nảy của ta đều hình thành từ bảy năm ở Bắc Cương.”
Y thu lại nụ cười: “Cho nên vương gia ạ, đừng hi vọng ta nghe một câu chuyện là có thể biến thành ‘người nhà họ Phó’ như kỳ vọng của ngài. Đôi tay ta từng chém vô số người Man, chưa bao giờ vọng tưởng chết rồi có thể chuyển sinh cực lạc, phải xuống địa ngục thì sẽ xuống địa phục, người khác cũng như vậy, ‘Xác chết hai người, máu chảy năm bước’ là đủ rồi, kẻ nào tạo nghiệt thì kẻ ấy gặp báo ứng, kéo theo người không liên quan làm gì?”[1]
Đoàn Quy Hồng nói: “Vì bản thân lão ta mà khiến trung lương nuốt hận, cho dù có gặp báo ứng thì cũng chẳng đủ trả lại nghiệt mà lão tạo ra.”
Phó Thâm không lập tức tiếp lời, y im lặng chốc lát, mới thấp giọng than thở: “Vương gia…… Lê dân có tội gì.”
Đoàn Quy Hồng cũng trầm mặc.
Thiên tử giận dữ, xác chết trăm vạn, máu chảy ngàn dặm —— Nhưng trăm vạn người chết oan đó có lỗi lầm gì đâu? Những binh lính chết ở ải Thanh Sa, những thường dân chết dưới tay Thuần Dương đạo nhân, những dân chúng vô tội chết vì Thu Dạ Bạch ở thôn Khê Sơn huyện Quảng Phong…. Bọn họ vì cớ gì mà phải chết?
Ông trời không thuận ý thì lũ hạn châu chấu, người bề trên không thuận ý thì đồng hoang phơi xương trắng, ngàn dặm chẳng tiếng gà[2]. Thứ dân nhỏ bé, nuôi sống gia đình đã là không dễ, đầu đội bao tầng trời, nửa cuộc đời gian lao, chỉ cần một tai họa bất ngờ là có thể hủy diệt tất cả.
Thời điểm mạng người quý giá, một cơn giận là có thể khiến trăm vạn người máu chảy xác trôi, thời điểm mạng người rẻ mạt, thì y chính là một trong trăm vạn người đó.
Nhờ đầu thai tốt, Phó Thâm không trở thành “một người trong vạn người” kia, nhưng y cũng không muốn làm kẻ “vạn dặm mới có một”, giữa giết người và bị giết, y muốn đi con đường thứ ba.
“Kính Uyên.” Đoàn Quy Hồng bỗng lên tiếng.
Bấy giờ ông ta không giận dữ, cũng chẳng trách cứ, chỉ bình thản gọi tên y, như thể cuối cùng cũng thu lại lớp vỏ ngụy trang, lộ ra bên trong cứng rắn lạnh lẽo như bàn thạch.
“‘Lê dân có tội gì’. Câu này, thúc phụ ngươi cũng từng nói.”
Năm Nguyên Thái thứ tư, Phó Đình Tín bị thương, Đoàn Quy Hồng đi tìm thuốc giải để trị độc cho ông, đồng thời, Đoàn Quy Hồng còn biết được chỗ đáng sợ của loại thực vật này từ vu y Nam Cương. Đúng lúc chiến sự biên quan căng thẳng, quân Hán và kỵ binh Thát tộc bất phân thắng bại, Đoàn Quy Hồng muốn dùng kế đánh úp để phá giải cục diện bế tắc, bèn tìm Phó Đình Tín để thương lượng, muốn dùng loại thảo dược này để hủy diệt đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ, kết hợp thêm cả dịch bệnh, một khi hậu phương chao đảo, ắt hẳn có thể giáng một đòn mạnh cho Thát tộc.
Phó Đình Tín cảm thấy cách này quá tàn nhẫn thâm độc nên nhất quyết không đồng ý, Đoàn Quy Hồng đi tìm Phó Kiên, lại bị dạy bảo cho một trận. Ngay lúc ông ta liên tục gặp đả kích, cho rằng cách này là bất khả thi, Phó Đình Trung lại tìm tới ông ta, cả hai cùng nhau bí mật quyết định kế hoạch này.
Mùa xuân năm sau, đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ bị Thu Dạ Bạch xâm chiếm, dịch bệnh bùng phát, toàn bộ bộ tộc rơi vào khủng hoảng, Phó Đình Trung dẫn quân xuất kích, đại thắng kỵ binh Đông Thát ở núi Đại Thanh, quân Hán thậm chí còn thâm nhập phúc địa thảo nguyên, suýt nữa đánh hạ vương thành của người Đông Thát.
Sau trận chiến đó, khi Đoàn Quy Hồng đắc ý khoe khoang công trạng với Phó Đình Tín, Phó Đình Tín chỉ nói một câu “Lê dân có tội gì”.
Mùa thu cùng năm, Phó Kiên lâm bệnh ở Cam Châu. Trong lúc ốm đau, ông dâng một bản tấu lên cho triều đình, đề bạt Đoàn Quy Hồng làm tướng quân quân chinh phạt phía Tây, đi tới Tây Nam dẹp loạn.
Hành động này đến nay vẫn bị rất nhiều người cho là Phó Kiên bài trừ dị kỷ, muốn lưu quân quyền Bắc Yến quân cho con trai mình. Chỉ có bản thân Đoàn Quy Hồng tự biết, ngày ấy Phó Kiên gọi ông đến trước giường bệnh, bảo rằng mình chẳng sống được lâu nữa, lệnh cho ông phải ở trước giường tuyên thề, mang Thu Dạ Bạch về Tây Nam, trông giữ cẩn thận, tuyệt đối không được để một cây nào lọt vào Trung Nguyên.
Ông ngơ ngẩn nghe Phó Kiên nói: “Thiên hạ yên ổn, thịnh thế trăm năm, thành do tay con, bại do tay con. Mặc dù con không mang họ Phó, nhưng trong xương tủy lại là người nhà họ Phó chúng ta.”
“Ta chinh chiến tứ phương, đánh giặc suốt nửa đời, chỉ có một tâm nguyện chưa thành, đó là muốn ngắm nhìn nhân gian thái bình, bây giờ…… đành giao lại cho con.”
Lão tướng quân ban cho ông mệnh lệnh cuối cùng. Đoàn Quy Hồng rưng rưng dập đầu lạy ba lạy trước giường bệnh, sau khi tiễn đưa Phó Kiên, đợi mọi việc kết thúc, ông liền theo đại quân triều đình đi tới Tây Nam.
Từ khi Tây Nam bình định vào năm Nguyên Thái thứ sáu đến nay, ông đã canh giữ suốt hai mươi năm.
Trong hai mươi năm, Phó Đình Trung bị người Thát ám sát, Phó Đình Tín tử trận sa trường, Phó Thâm nhận lệnh xuất binh đến Bắc Cương giữa lúc nguy cấp, ông ở Tây Nam, nhưng chưa một ngày nào quên được cỏ úa cát vàng ngút ngàn nơi phương Bắc.
Mấy năm đầu Phó Thâm mới đến Bắc Cương, Đoàn Quy Hồng thấy chiến sự ngừng dần, phương Bắc trở về yên bình, còn tưởng rằng trải qua mười mấy năm trắc trở gập ghềnh, câu “Nhân gian thái bình” kia cuối cùng cũng thực hiện được.
Nhưng sau đó, ông phát hiện mình nghĩ lầm rồi.
Bắc Yến thiết kỵ truyền qua ba đời trong tay người nhà họ Phó, Nguyên Thái đế là người đầu tiên ngồi không yên.
Người nhà họ Phó đều chết sớm, Nguyên Thái đế thì lại là một hoàng đế sống lâu, ông ta trơ mắt nhìn người nhà họ Phó hết đời này đến đời khác tiếp nhận ấn soái, đi tới sa trường, Bắc Yến quân ngày càng hùng mạnh, chủ soái ngày càng trẻ tuổi, mà ông ta thì ngày càng già yếu. Quay đầu nhìn đám long tử long tôn của mình, chẳng có lấy một người kinh tài tuyệt diễm, xứng làm chủ của một trung hưng.
Cứ tiếp tục thế này, thì mười mấy năm sau, hai mươi mấy năm sau, thiên hạ này có còn là thiên hạ của nhà bọn họ hay không?
Trước khi Nguyên Thái đế lệnh cho Phó Đình Nghĩa kế thừa tước vị, đổi sang phong Phó Thâm làm Tĩnh Ninh hầu, Đoàn Quy Hồng đã cảm thấy hoàng thượng kiêng kỵ và đề phòng vị thống soái mới của Bắc Yến thiết kỵ.
Năm xưa Nguyên Thái đế và Phó Kiên quân thần tương đắc, là bởi vì triều đình bất ổn, chiến sự phương Bắc còn phải dựa vào ông; ưu đãi Phó Đình Trung và Phó Đình Tín rất nhiều, là bởi vì huynh đệ hai người đồng tâm hiệp lực, còn có Túc vương tham gia một phần trong đó; mà bây giờ ông ta dám liên tiếp ra tay với Phó Thâm, chỉ đơn giản là bắt nạt y còn trẻ dễ uốn nắn, mà Dĩnh quốc công hiện tại thì là một tên phế vật luôn muốn mọc cánh thành tiên, có xảy ra chuyện cũng chẳng giúp đỡ được gì.
Để phòng vạn nhất, Đoàn Quy Hồng phái Đỗ Lãnh đến bên cạnh Phó Thâm. Khi ý đồ của hoàng đế ngày một rõ ràng, Đoàn Quy Hồng rốt cuộc cũng thất vọng với cái gọi là “Nhân gian thái bình” rồi. Ông cuối cùng cũng hiểu, chỉ cần ngai vàng còn có người ngồi, thì người nhà họ Phó, và cả chính ông, sẽ vĩnh viễn chẳng thể nào thoát khỏi “thiên mệnh”.
“Thần chết say ngủ” bị phong giữ suốt hai mươi năm ở Tây Nam được người thủ vệ đánh thức, từ vùng duyên giang Kinh Sở chảy về phía Đông, cắm rễ trong núi non Giang Nam tựa như u linh, trải rộng trên đất những đóa hoa trắng tinh.
Tây Bình quận vương kể xong, chậm rãi thở ra khí đục mắc ứ trong lồng ngực, nói: “Ta giám thủ tự đạo, phụ lời phó thác, tương lai xuống dưới suối vàng, chẳng còn mặt mũi nào gặp lại Phó công nữa.”
(Giám thủ tự đạo: đánh cắp thứ mình canh giữ, trông coi.)
Là người đầu tiên mang họ khác được phong làm quận vương, vì một lời giao phó mơ hồ, mà cố thủ Tây thùy suốt hai mươi năm. Phó Thâm biết ông ta đã làm ra rất nhiều chuyện sai lầm, nhưng lại chẳng thể nào đứng ở vị trí cao hơn mà khiển trách ông.
Cũng như năm ấy Phó Đình Tín nói với Đoàn Quy Hồng “Lê dân có tội gì”, giờ đây đổi thành Phó Thâm, y cũng chỉ có thể nói một câu như vậy mà thôi.
Bởi vì y biết mình cũng chẳng vô tội.
Trên đời này tội danh khiến người ta bất đắc dĩ nhất, một là “Có lẽ có”, một là “Mang ngọc mắc tội”, một nữa là “Ta không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì ta mà chết.” (Mấy cái điển tích này mình đều từng chú thích, mấy bạn có thể search trong trang nhà mình để tìm nhé, mình lười cop lại quá =v=)
Phó Thâm chán chường nói: “Ta cũng chẳng có mặt mũi nào mà gặp ông ấy, hay là chúng ta cùng đến trước mộ ông ấy thắt cổ đi.”
Đoàn Quy Hồng không để ý đến lời trào phúng của y: “Nếu đã nói đến nước này rồi, vậy ta cũng cho người biết ngọn nguồn. Ngươi biết ta đang ở Tây Nam, xa ngoài tầm với, khó mà lập thành thế lực quy mô ở kinh doanh. Thuần Dương đạo nhân có thể đứng vững chân ở kinh thành, đều là nhờ một người nhiều lần giúp đỡ.”
Lòng Phó Thâm bỗng chùng xuống: “Là ai?”
✿Tác giả có lời muốn nói:
[1] 《Đường sư bất nhục sứ mệnh》trong sách giáo khoa cấp hai, vốn xuất xứ từ 《Chiến quốc sách》.
[2]《Cảo lý hành》của Tào Tháo.
Editor: Tình hình kiểu này chắc ko hoàn được trong tháng 10 đâu bà con ạ =_=.
Danh sách chương