Ánh mắt Dương Túc Phong lấp lánh, nhẹ nhàng nói: “Người muốn nói, hiện giờ bọn chúng chuẩn bị giành quyền lãnh đạo cuối cùng?”
Dương Cơ Duệ bình thản đáp: “Tất nhiên rồi, bất quá hiện giờ còn chưa bắt đầu. Tất cả bạo động cuối cùng cũng chỉ có một hoàng đế, đây là quy luật bất di bất dịch từ xưa giờ. Đối với Mĩ Ni Tư mà nói, cũng chỉ có một người có thể gọi là Tát Nhĩ Cống. Đây là quy luật lịch sử tất yếu, là ai cũng không đi ngược lại được. Cho dù bọn họ từng thân thiết như thế nào, thậm chí là mặc chung một cái khố đi nữa; dẫu tình hữu nghị đôi bên cao ngất trời, tình huynh đệ chiến đấu sâu hơn biển thì đứng trước vương miện Tát Nhĩ Cống, cùng mẹ sinh ra cũng không có nghĩa lý gì. Ngươi chết thì ta sống, vương miện vàng chóe kia chỉ có thể đội trên đầu một người. Còn như người đó là lãnh đạo quân đoàn của Quang Minh đế quốc Bộ Thủ, giáo chủ Ma Ni giáo Tuyền Tu Hoằng hay tư lệnh phản quân Bành Việt thì còn phải xem thực lực của ba người đó ra sao. Cho nên, trước khi biên phòng quân hoàn toàn rút lui khỏi Mĩ Ni Tư, bọn chúng còn nghỉ ngơi dưỡng sức, cực lực tránh xung đột với biên phòng quân, tránh tổn thất không đáng. Một khi biên phòng quân hoàn toàn triệt thoái, không nghi ngờ gì nữa, chúng nhất định khai diễn trường ác chiến. Bộ Thủ và Bành Việt không nói, Ma Ni giáo khẳng định là kẻ phát động đầu tiên, chiếm đoạt rất nhiều dân và đất đai.”
Ngưng một lát, bước đi hai bước lại quay đầu nhìn Dương Túc Phong, cân nhắc kỹ càng, Dương Cơ Duệ nói tiếp: “Sở dĩ Ma Ni giáo sốt ruột như vậy vì sau lưng chúng là những kẻ đã từng trải qua khốn khổ - người Thiểm Mễ Đặc và A Tạp Đức. Hai chủng tộc này năm đó chiếm cứ Tình Xuyên và Dương xuyên, hai khu vực màu mỡ nhất Mĩ Ni Tư, sống những ngày dễ chịu nhất. Về sau bị Tiêu Ma Ha trục xuất, bị bức phải sinh tồn trong hoàn cảnh khốc liệt trên cao nguyên sắc máu, chịu sự quấy rối, cướp bóc của dân du mục, cuộc sống hết sức vất vả. Vì thế, khát vọng của bọn chúng với Mĩ Ni Tư vượt xa Bộ Thủ và Bành Việt, một lòng muốn chiếm lại Dương Xuyên và Tình Xuyên.”
Dương Túc Phong trầm ngâm nói: “Bành Việt phản quân không có kế hoạch gì sao?”
Dương Cơ Duệ đáp: “Chống lưng cho phản quân Bành Việt là vương quốc Ương Già. Trên Y Vân đại lục, Ương Già không có sức mạnh hùng hậu. Dù là Lâu Lan quốc ở phía Nam hay vương quốc Cáp Lạp Lôi phương Bắc đều cường thịnh hơn rất nhiều. Hai quốc gia này cũng không có quan hệ hữu hảo với Ương Già quốc. Do đó Bành Việt chỉ ngấp nghé ruộng đất trong phạm vi Tình Xuyên là khu vực có sản lượng thóc lúa lớn nhất Mĩ Ni Tư. Ương Già quốc phải chịu áp lực quân sự rất lớn cả ở biên giới phía nam và phía bắc nên sự chi trì của họ cho Bành Việt cũng có hạn. Bất quá, bọn chúng cần có một nơi màu mỡ trồng cấy để cung cấp lương thực cho số dân đang ngày càng tăng, Tình Xuyên không nghi ngờ gì là lựa chọn số một.”
Dương Túc Phong gật gù: “Còn Quang Minh đế quốc thì thế nào? Bọn chúng kiểm soát dân cư và ruộng đất nhiều nhất, lực lượng cũng hùng mạnh nhất. Nghe nói kị binh Quang thị lên tới trên mười vạn người, kế hoạch của chúng chắc chắn không chỉ là Mĩ Ni Tư?”
Dương Cơ Duệ cân nhắc một chút, nói: “Bộ Thủ của Quang Minh đế quốc là một tổ chức phức tạp vô cùng, kẻ chống lưng cho bọn họ cũng phức tạp không kém. Có Người Tây Mông, người Ngõa Lạp, còn có một bộ phận người Vũ Chân, nghe nói có cả người Tây Hồ nữa, tóm lại là tất cả các sắc dân du mục đều có phần. Nhưng hành động của bản thân Bộ Thủ đã hết sức kì quái rồi, bản thân Bộ Thủ từng là Quân Pháp quan của của sư đoàn biên phòng 68…”
Dương Túc Phong nhảy dựng lên: “Cái gì? Bộ Thủ lại là quan quân tạo phản của đế quốc? Đồ cặn bã!”
Dương Cơ Duệ ngập ngừng, đại khái không biết dùng từ gì để diễn tả, nghĩ một hồi mới nói: “Bộ Thủ gia nhập Quang Minh đế quốc, quá trình phức tạp vô cùng, sự thật thế nào sợ rằng vĩnh viễn không có ai biết được. Sư đoàn biên phòng quân số 68, còn gọi là sư đoàn Hoa Cúc, thiếu tướng sư đoàn trưởng Thanh Việt là kẻ thích đao to búa lớn, chuyên khoe mẽ công phu, nói khoác động trời. Y quan hệ rất tốt với cánh truyền thông, kết quả báo chí đế quốc phần lớn đều thổi phồng sư đoàn của y thành sư đoàn Hoa Cúc, còn bình bầu là sư đoàn giàu năng lực chiến đấu nhất trong năm sư đoàn của đế quốc. Thực tế, Thanh Việt khai khống quân số để lĩnh tiền, tham ô khoản quân lương kếch xù. Biên chế một vạn hai ngàn bộ đội, thực tế chưa đến bốn ngàn, trong đó hơn ngàn quân là nông dân các vùng lân cận được thu nhận tạm thời, chưa từng kinh qua huấn luyện chiến đấu chính quy, năng lực chiến đấu cỡ nào khỏi nói cũng biết. Kết cục, khi bạo loạn Mĩ Ni Tư bùng phát, năm vạn kị binh Ngõa Lạp xuôi Nam, sư đoàn Hoa Cúc đứng mũi chịu sào, toàn quân thảm tử, sư đoàn trưởng Thanh Việt đầu hàng Ngõa Lạp quân…”
Dương Túc Phong sốt ruột ngắt lời: “Bộ Thủ thì sao?”
Dương Cơ Duệ nói: “Ngươi đừng có gấp chứ, để từ từ ta nói. Bộ Thủ lúc đó không có mặt ở tiền tuyến. Hắn mang theo mật lệnh của Thanh Việt đến nơi khác chấp hành một nhiệm vụ bí mật, đợi đến khi hắn về lại nhận được mệnh lệnh đầu hàng của Thanh Việt. Tàn binh của Hoa Cúc kì dư đều nhận được mệnh lệnh đàu hàng của tên vô sỉ đó. Lệnh đó đương nhiên bị quan binh cực lực chống đối, riêng Bộ Thủ ngấm ngầm chấp hành. Hắn tự mình thoát li bộ đội, nương nhờ người Ngõa Lạp, trở thành phó quan giống Thanh Việt.”
Lão nặng nề ho mấy tiếng, nói tiếp: “Năm đó, Bộ Thủ một mực biện hộ hành động của mình đơn giản là chấp hành mệnh lệnh thượng cấp, ra sức che đậy hành vi đáng xấu hổ đó. Nhưng có người đế quốc nào không xem hắn là phản đồ vô sỉ? Đáng hận nhất không phải là việc hắn phản đối triều đình mà là dẫn sói vào nhà. Hiện giờ mọi người đều đồn đại là hắn chủ động cấu kết Tây Mông và Ngõa Lạp, dẫn chúng vào Mĩ Ni Tư. Hắn đáng mặt là gian tặc bán nước.”
Ánh mắt Dương Túc Phong trở nên lạnh lùng, nói: “Hắn đúng là tên bán nước người người căm ghét! Dấy binh tạo phản, đối đầu với triều đình đã đành, còn lập ra chính phủ đen tối hủ bại như vậy! Bất luận thế nào cũng không thể cấu kết ngoại bang, tàn sát đồng bào mình. Không thể nhịn được nữa, hạng người này đúng là không cách nào khoan dung được!”
Dương Cơ Duệ thở hổn hển, dường như cố dằn cơn nóng giận trong lòng, trầm tư hồi lâu mới nói: “Bạo loạn nổ ra không lâu, đế quốc điều động ba sư đoàn trung ương quân đi dẹp loạn. Ba sư đoàn này đều là bộ đội tinh nhuệ, toàn bộ trang bị súng trường Minh Tư Khắc tối tân nhất. Quân Vụ bộ hy vọng nhanh chóng giải quyết phản loạn một lần cho xong. Đáng tiếc, chỉ huy quân đội là một tên đần độn…”
Dương Túc Phong hậm hực hỏi: “Quan chỉ huy rốt cuộc là ai? Vì sao không ai dám nhắc tới cái tên này mỗi lần đề cập tới chuyện đó? Y thực ra là ai?”
Mặt mày Dương Cơ Duệ khổ sở, cứ như chìm đắm vào đoạn hồi ức đau khổ, chốc lát hứng thú đều tiêu tan, đáp: “Người đó, người đó là đại tướng Giang Trữ, đệ đệ của đương kim hoàng hậu, cũng là quan môn đệ tử duy nhất của Chiến thần Nhạc Thần Châu...”
Dương Túc Phong tức thì nghẹn lời, đứng không muốn vững, toàn thân như quả bóng xì hơi, ỉu xìu nói: “Chẳng trách đế quốc nghiêm cấm bàn tán chuyện này. Hóa ra còn liên quan tới Nhạc Thần Châu. Ôi trời đất ơi, Chiến thần Nhạc Thần Châu sao lại thu nhận tên đần ấy làm đệ tử chứ?”
Dương Cơ Duệ đau khổ đáp: “Nói tới chuyện này, lỗi cũng không hoàn toàn do đại tướng Giang Trữ. Tuy Giang Trữ tham lam vô đối nhưng trên lĩnh vực chỉ huy quân sự cũng còn có tài. Ngươi cũng biết rồi đó, tiễn thuật của y được công nhận là đệ nhất đế quốc, đến Ưng Đan cũng còn tự thẹn không bằng. Đáng tiếc, sai sót không đáng, đế quốc vì muốn tốc chiến tốc thắng nên cấp cho y ba sư đoàn trang bị toàn hỏa khí. Năm xưa Nhạc Thần Châu chỉ huy quân đội toàn là vũ khí lạnh, kiến thức và phương pháp huấn luyện bộ đội ông ta truyền cho Giang Trữ làm gì có hỏa khí trong đó cơ chứ...”
Dương Túc Phong thiếu điều nhảy dựng lên: “Giang Trữ đúng là đồ ngốc mà! Y không biết tự mình nghiên cứu sao?”
Dương Cơ Duệ quay mặt đi, chua chát đáp: “Ài, vấn đề chính là chỗ đó. Giang Trữ quả thật là học sinh giỏi nhất, một thân bản lĩnh của Nhạc Thần Châu y học hết bảy tám phần. Y chỉ huy mấy trận chiến, quả thực xuất sắc khiến người ta tâm phục khẩu phục. Song, vấn đề lớn nhất của y là học được nhưng lại không biết nghiên cứu như thế nào. Bộ đội hỏa khí là phương thức tác chiến hoàn toàn mới, Giang Trữ hoàn toàn không hiểu, thậm chí quy luật cơ bản nhất cũng không nắm được đã bị đẩy tới chiến trường Mĩ Ni Tư!”
Dương Túc Phong uể oải dựa vào xe ngựa, nghiến răng: “Đồ đần độn!”
Dương Cơ Duệ trầm giọng: “Công nguyên năm 1724, đại tướng Giang Trữ suất lĩnh quân đội đến Mĩ Ni Tư, chuẩn bị phô diễn tài nghệ. Không dè ông trời không làm được chuyện gì hay ho hết, Mĩ Ni Tư hạn hán nhiều năm ròng lại bắt đầu mưa. Hỏa khí kị nhất là nước, Giang Trữ lại không có biện pháp phòng bị, phần lớn vũ khí bị ẩm không sử dụng được. Khi khai hỏa phát đầu tiên, binh sĩ đế quốc mới phát hiện hỏa dược và hỏa pháo không thể bắn được, chỉ còn dựa vào súng trường và lưỡi lê, sao là đối thủ của kị binh Ngõa Lạp hung hãn chứ? Kết quả, mau chóng bỏ chạy hết. Lần chiến bại đầu tiên đó đã dự báo vận mệnh diệt vong của trung ương quân, trong thời kỳ mưa dầm, hỏa khí căn bản không thể phát huy uy lực. Sau chiến trận, sở dĩ Giang Trữ không bị đưa ra tòa án quân sự mà an nhàn ở nhà cũng nhờ mùa mưa dầm đó. Điều động bộ đội hỏa khí viễn chinh vốn dĩ đã là sai lầm trí mệnh. Sai lầm đó do tiên đế một mực chủ trương mà ra. Đương thời cũng có người cảnh tỉnh tiên đế, nhưng tiên đế khăng khăng làm theo ý mình mới dẫn đến thảm bại này.”
Ho sù sụ một trận, Dương Cơ Duệ khó nhọc nói: “Sau khi Giang Trữ thất bại, mọi người đều nói ông trời muốn diệt Đường Xuyên. Vì sao Giang Trữ đến Mĩ Ni Tư thì trời đổ mưa? Trước khi y đến và sau khi y bỏ chạy thì nửa giọt mưa cũng không thấy? Không ai giải thích được. Hầu hết mọ người đều tin rằng đó là ý trời, là ông trời muốn đế quốc bỏ Mĩ Ni Tư.”
Dương Túc Phong nghiến răng nghiến lợi nói: “Bộ Thủ và Thanh Việt nhất định là đảm nhiệm không ít vai trò trong chiến đấu?”
Dương Cơ Duệ sầu não đáp: “Thanh Việt đương nhiên đảm trách tham mưu cho phản quân rồi, nhưng Bộ Thủ thì biến mất.
Không lâu sau, Thanh Việt bị một nhân vật thần bí ám sát chết. Có điều lúc này bộ đội của Giang Trữ đã tổn thất đến bảy tám phần, không còn cơ hội vãn hồi cục diện nữa. Thêm vào đó, vùng biên giới đế quốc lại thần hồn nát thần tính, đế quốc vô phương điều động thêm bộ đội đến Mĩ Ni Tư. Tiên đế đành nuốt lệ hạ lệnh triệt thoái bộ đội tàn dư. Ba sư đoàn quân, xuất chinh gần tám vạn người, trở về không tới ba ngàn, có thể nói toàn quân thảm tử. Giang Trữ thất bại lần đó gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, đế quốc bị bức phải bỏ quyền khống chế Mĩ Ni Tư, trơ mắt nhìn bạo loạn ngày càng ác liệt, rốt cuộc đi đến chỗ không thể vãn hồi. Tiên đế Đường Vinh cũng hối hận với quyết định của mình, không ngớt tự trách mình, cuối cùng đầu năm nay sầu não mà chết. Quân đội cũng vì thế không tin vũ khí hỏa dược. Vốn định trang bị hỏa khí cho Trung ương quân, cuối cùng đình chỉ toàn bộ. Các tướng lĩnh trẻ như Thượng Quan Thanh Tuyền, Điệp Phong Vũ càng công khai phản đối thay đổi quân trang cho sư đoàn. Ngay cả quân đội Mã Toa quốc và Y Lan quốc cũng dừng việc trang bị hỏa khí lại. Khắp nơi đều cho rằng, hỏa khí chịu ảnh hưởng rất lớn bởi khí trời, chỉ có lắp đặt trên tàu cỡ lớn hoặc pháo đài kiên cố mới có thể phát huy tác dụng.”
Dương Túc Phong nhíu mày: “Đó là vì Giang Trữ quá ngu chứ không phải bộ đội hỏa dược không biết dùng. Chẳng qua, hắc hỏa dược đúng là tệ thật nhưng nếu hỏa dược TNT thì không sợ thấm nước được.”
Dương Cơ Duệ không hề để ý việc Dương Túc Phong nhắc đến một từ lạ, lão chỉ thương tâm thở dài, nặng nề nói tiếp: “Sau khi Trung ương quân bị tiêu diệt, Bộ Thủ lại xuất đầu lộ diện. Hắn tự xưng mình là linh hồn của Tát Nhĩ Cống, được ông trời phái xuống lãnh đạo Mĩ Ni Tư. Đương nhiên, không mấy người tin lời xằng bậy của hắn, nhưng hắn lại thuyết phục được đám người Tây Mông đang rục rịch ngóc đầu dậy. Thắng lợi của người Ngõa Lạp làm bọn Tây Mông hoảng hốt, bọn chúng lo sợ thế cân bằng trên cao nguyên sắc máu bị phá vỡ. Vì thế, dưới sự dẫn dụ của Bộ Thủ, Tây Mông mau chóng triển khai năm vạn kị binh tiến vào Mĩ Ni Tư.”
Dương Cơ Duệ bình thản đáp: “Tất nhiên rồi, bất quá hiện giờ còn chưa bắt đầu. Tất cả bạo động cuối cùng cũng chỉ có một hoàng đế, đây là quy luật bất di bất dịch từ xưa giờ. Đối với Mĩ Ni Tư mà nói, cũng chỉ có một người có thể gọi là Tát Nhĩ Cống. Đây là quy luật lịch sử tất yếu, là ai cũng không đi ngược lại được. Cho dù bọn họ từng thân thiết như thế nào, thậm chí là mặc chung một cái khố đi nữa; dẫu tình hữu nghị đôi bên cao ngất trời, tình huynh đệ chiến đấu sâu hơn biển thì đứng trước vương miện Tát Nhĩ Cống, cùng mẹ sinh ra cũng không có nghĩa lý gì. Ngươi chết thì ta sống, vương miện vàng chóe kia chỉ có thể đội trên đầu một người. Còn như người đó là lãnh đạo quân đoàn của Quang Minh đế quốc Bộ Thủ, giáo chủ Ma Ni giáo Tuyền Tu Hoằng hay tư lệnh phản quân Bành Việt thì còn phải xem thực lực của ba người đó ra sao. Cho nên, trước khi biên phòng quân hoàn toàn rút lui khỏi Mĩ Ni Tư, bọn chúng còn nghỉ ngơi dưỡng sức, cực lực tránh xung đột với biên phòng quân, tránh tổn thất không đáng. Một khi biên phòng quân hoàn toàn triệt thoái, không nghi ngờ gì nữa, chúng nhất định khai diễn trường ác chiến. Bộ Thủ và Bành Việt không nói, Ma Ni giáo khẳng định là kẻ phát động đầu tiên, chiếm đoạt rất nhiều dân và đất đai.”
Ngưng một lát, bước đi hai bước lại quay đầu nhìn Dương Túc Phong, cân nhắc kỹ càng, Dương Cơ Duệ nói tiếp: “Sở dĩ Ma Ni giáo sốt ruột như vậy vì sau lưng chúng là những kẻ đã từng trải qua khốn khổ - người Thiểm Mễ Đặc và A Tạp Đức. Hai chủng tộc này năm đó chiếm cứ Tình Xuyên và Dương xuyên, hai khu vực màu mỡ nhất Mĩ Ni Tư, sống những ngày dễ chịu nhất. Về sau bị Tiêu Ma Ha trục xuất, bị bức phải sinh tồn trong hoàn cảnh khốc liệt trên cao nguyên sắc máu, chịu sự quấy rối, cướp bóc của dân du mục, cuộc sống hết sức vất vả. Vì thế, khát vọng của bọn chúng với Mĩ Ni Tư vượt xa Bộ Thủ và Bành Việt, một lòng muốn chiếm lại Dương Xuyên và Tình Xuyên.”
Dương Túc Phong trầm ngâm nói: “Bành Việt phản quân không có kế hoạch gì sao?”
Dương Cơ Duệ đáp: “Chống lưng cho phản quân Bành Việt là vương quốc Ương Già. Trên Y Vân đại lục, Ương Già không có sức mạnh hùng hậu. Dù là Lâu Lan quốc ở phía Nam hay vương quốc Cáp Lạp Lôi phương Bắc đều cường thịnh hơn rất nhiều. Hai quốc gia này cũng không có quan hệ hữu hảo với Ương Già quốc. Do đó Bành Việt chỉ ngấp nghé ruộng đất trong phạm vi Tình Xuyên là khu vực có sản lượng thóc lúa lớn nhất Mĩ Ni Tư. Ương Già quốc phải chịu áp lực quân sự rất lớn cả ở biên giới phía nam và phía bắc nên sự chi trì của họ cho Bành Việt cũng có hạn. Bất quá, bọn chúng cần có một nơi màu mỡ trồng cấy để cung cấp lương thực cho số dân đang ngày càng tăng, Tình Xuyên không nghi ngờ gì là lựa chọn số một.”
Dương Túc Phong gật gù: “Còn Quang Minh đế quốc thì thế nào? Bọn chúng kiểm soát dân cư và ruộng đất nhiều nhất, lực lượng cũng hùng mạnh nhất. Nghe nói kị binh Quang thị lên tới trên mười vạn người, kế hoạch của chúng chắc chắn không chỉ là Mĩ Ni Tư?”
Dương Cơ Duệ cân nhắc một chút, nói: “Bộ Thủ của Quang Minh đế quốc là một tổ chức phức tạp vô cùng, kẻ chống lưng cho bọn họ cũng phức tạp không kém. Có Người Tây Mông, người Ngõa Lạp, còn có một bộ phận người Vũ Chân, nghe nói có cả người Tây Hồ nữa, tóm lại là tất cả các sắc dân du mục đều có phần. Nhưng hành động của bản thân Bộ Thủ đã hết sức kì quái rồi, bản thân Bộ Thủ từng là Quân Pháp quan của của sư đoàn biên phòng 68…”
Dương Túc Phong nhảy dựng lên: “Cái gì? Bộ Thủ lại là quan quân tạo phản của đế quốc? Đồ cặn bã!”
Dương Cơ Duệ ngập ngừng, đại khái không biết dùng từ gì để diễn tả, nghĩ một hồi mới nói: “Bộ Thủ gia nhập Quang Minh đế quốc, quá trình phức tạp vô cùng, sự thật thế nào sợ rằng vĩnh viễn không có ai biết được. Sư đoàn biên phòng quân số 68, còn gọi là sư đoàn Hoa Cúc, thiếu tướng sư đoàn trưởng Thanh Việt là kẻ thích đao to búa lớn, chuyên khoe mẽ công phu, nói khoác động trời. Y quan hệ rất tốt với cánh truyền thông, kết quả báo chí đế quốc phần lớn đều thổi phồng sư đoàn của y thành sư đoàn Hoa Cúc, còn bình bầu là sư đoàn giàu năng lực chiến đấu nhất trong năm sư đoàn của đế quốc. Thực tế, Thanh Việt khai khống quân số để lĩnh tiền, tham ô khoản quân lương kếch xù. Biên chế một vạn hai ngàn bộ đội, thực tế chưa đến bốn ngàn, trong đó hơn ngàn quân là nông dân các vùng lân cận được thu nhận tạm thời, chưa từng kinh qua huấn luyện chiến đấu chính quy, năng lực chiến đấu cỡ nào khỏi nói cũng biết. Kết cục, khi bạo loạn Mĩ Ni Tư bùng phát, năm vạn kị binh Ngõa Lạp xuôi Nam, sư đoàn Hoa Cúc đứng mũi chịu sào, toàn quân thảm tử, sư đoàn trưởng Thanh Việt đầu hàng Ngõa Lạp quân…”
Dương Túc Phong sốt ruột ngắt lời: “Bộ Thủ thì sao?”
Dương Cơ Duệ nói: “Ngươi đừng có gấp chứ, để từ từ ta nói. Bộ Thủ lúc đó không có mặt ở tiền tuyến. Hắn mang theo mật lệnh của Thanh Việt đến nơi khác chấp hành một nhiệm vụ bí mật, đợi đến khi hắn về lại nhận được mệnh lệnh đầu hàng của Thanh Việt. Tàn binh của Hoa Cúc kì dư đều nhận được mệnh lệnh đàu hàng của tên vô sỉ đó. Lệnh đó đương nhiên bị quan binh cực lực chống đối, riêng Bộ Thủ ngấm ngầm chấp hành. Hắn tự mình thoát li bộ đội, nương nhờ người Ngõa Lạp, trở thành phó quan giống Thanh Việt.”
Lão nặng nề ho mấy tiếng, nói tiếp: “Năm đó, Bộ Thủ một mực biện hộ hành động của mình đơn giản là chấp hành mệnh lệnh thượng cấp, ra sức che đậy hành vi đáng xấu hổ đó. Nhưng có người đế quốc nào không xem hắn là phản đồ vô sỉ? Đáng hận nhất không phải là việc hắn phản đối triều đình mà là dẫn sói vào nhà. Hiện giờ mọi người đều đồn đại là hắn chủ động cấu kết Tây Mông và Ngõa Lạp, dẫn chúng vào Mĩ Ni Tư. Hắn đáng mặt là gian tặc bán nước.”
Ánh mắt Dương Túc Phong trở nên lạnh lùng, nói: “Hắn đúng là tên bán nước người người căm ghét! Dấy binh tạo phản, đối đầu với triều đình đã đành, còn lập ra chính phủ đen tối hủ bại như vậy! Bất luận thế nào cũng không thể cấu kết ngoại bang, tàn sát đồng bào mình. Không thể nhịn được nữa, hạng người này đúng là không cách nào khoan dung được!”
Dương Cơ Duệ thở hổn hển, dường như cố dằn cơn nóng giận trong lòng, trầm tư hồi lâu mới nói: “Bạo loạn nổ ra không lâu, đế quốc điều động ba sư đoàn trung ương quân đi dẹp loạn. Ba sư đoàn này đều là bộ đội tinh nhuệ, toàn bộ trang bị súng trường Minh Tư Khắc tối tân nhất. Quân Vụ bộ hy vọng nhanh chóng giải quyết phản loạn một lần cho xong. Đáng tiếc, chỉ huy quân đội là một tên đần độn…”
Dương Túc Phong hậm hực hỏi: “Quan chỉ huy rốt cuộc là ai? Vì sao không ai dám nhắc tới cái tên này mỗi lần đề cập tới chuyện đó? Y thực ra là ai?”
Mặt mày Dương Cơ Duệ khổ sở, cứ như chìm đắm vào đoạn hồi ức đau khổ, chốc lát hứng thú đều tiêu tan, đáp: “Người đó, người đó là đại tướng Giang Trữ, đệ đệ của đương kim hoàng hậu, cũng là quan môn đệ tử duy nhất của Chiến thần Nhạc Thần Châu...”
Dương Túc Phong tức thì nghẹn lời, đứng không muốn vững, toàn thân như quả bóng xì hơi, ỉu xìu nói: “Chẳng trách đế quốc nghiêm cấm bàn tán chuyện này. Hóa ra còn liên quan tới Nhạc Thần Châu. Ôi trời đất ơi, Chiến thần Nhạc Thần Châu sao lại thu nhận tên đần ấy làm đệ tử chứ?”
Dương Cơ Duệ đau khổ đáp: “Nói tới chuyện này, lỗi cũng không hoàn toàn do đại tướng Giang Trữ. Tuy Giang Trữ tham lam vô đối nhưng trên lĩnh vực chỉ huy quân sự cũng còn có tài. Ngươi cũng biết rồi đó, tiễn thuật của y được công nhận là đệ nhất đế quốc, đến Ưng Đan cũng còn tự thẹn không bằng. Đáng tiếc, sai sót không đáng, đế quốc vì muốn tốc chiến tốc thắng nên cấp cho y ba sư đoàn trang bị toàn hỏa khí. Năm xưa Nhạc Thần Châu chỉ huy quân đội toàn là vũ khí lạnh, kiến thức và phương pháp huấn luyện bộ đội ông ta truyền cho Giang Trữ làm gì có hỏa khí trong đó cơ chứ...”
Dương Túc Phong thiếu điều nhảy dựng lên: “Giang Trữ đúng là đồ ngốc mà! Y không biết tự mình nghiên cứu sao?”
Dương Cơ Duệ quay mặt đi, chua chát đáp: “Ài, vấn đề chính là chỗ đó. Giang Trữ quả thật là học sinh giỏi nhất, một thân bản lĩnh của Nhạc Thần Châu y học hết bảy tám phần. Y chỉ huy mấy trận chiến, quả thực xuất sắc khiến người ta tâm phục khẩu phục. Song, vấn đề lớn nhất của y là học được nhưng lại không biết nghiên cứu như thế nào. Bộ đội hỏa khí là phương thức tác chiến hoàn toàn mới, Giang Trữ hoàn toàn không hiểu, thậm chí quy luật cơ bản nhất cũng không nắm được đã bị đẩy tới chiến trường Mĩ Ni Tư!”
Dương Túc Phong uể oải dựa vào xe ngựa, nghiến răng: “Đồ đần độn!”
Dương Cơ Duệ trầm giọng: “Công nguyên năm 1724, đại tướng Giang Trữ suất lĩnh quân đội đến Mĩ Ni Tư, chuẩn bị phô diễn tài nghệ. Không dè ông trời không làm được chuyện gì hay ho hết, Mĩ Ni Tư hạn hán nhiều năm ròng lại bắt đầu mưa. Hỏa khí kị nhất là nước, Giang Trữ lại không có biện pháp phòng bị, phần lớn vũ khí bị ẩm không sử dụng được. Khi khai hỏa phát đầu tiên, binh sĩ đế quốc mới phát hiện hỏa dược và hỏa pháo không thể bắn được, chỉ còn dựa vào súng trường và lưỡi lê, sao là đối thủ của kị binh Ngõa Lạp hung hãn chứ? Kết quả, mau chóng bỏ chạy hết. Lần chiến bại đầu tiên đó đã dự báo vận mệnh diệt vong của trung ương quân, trong thời kỳ mưa dầm, hỏa khí căn bản không thể phát huy uy lực. Sau chiến trận, sở dĩ Giang Trữ không bị đưa ra tòa án quân sự mà an nhàn ở nhà cũng nhờ mùa mưa dầm đó. Điều động bộ đội hỏa khí viễn chinh vốn dĩ đã là sai lầm trí mệnh. Sai lầm đó do tiên đế một mực chủ trương mà ra. Đương thời cũng có người cảnh tỉnh tiên đế, nhưng tiên đế khăng khăng làm theo ý mình mới dẫn đến thảm bại này.”
Ho sù sụ một trận, Dương Cơ Duệ khó nhọc nói: “Sau khi Giang Trữ thất bại, mọi người đều nói ông trời muốn diệt Đường Xuyên. Vì sao Giang Trữ đến Mĩ Ni Tư thì trời đổ mưa? Trước khi y đến và sau khi y bỏ chạy thì nửa giọt mưa cũng không thấy? Không ai giải thích được. Hầu hết mọ người đều tin rằng đó là ý trời, là ông trời muốn đế quốc bỏ Mĩ Ni Tư.”
Dương Túc Phong nghiến răng nghiến lợi nói: “Bộ Thủ và Thanh Việt nhất định là đảm nhiệm không ít vai trò trong chiến đấu?”
Dương Cơ Duệ sầu não đáp: “Thanh Việt đương nhiên đảm trách tham mưu cho phản quân rồi, nhưng Bộ Thủ thì biến mất.
Không lâu sau, Thanh Việt bị một nhân vật thần bí ám sát chết. Có điều lúc này bộ đội của Giang Trữ đã tổn thất đến bảy tám phần, không còn cơ hội vãn hồi cục diện nữa. Thêm vào đó, vùng biên giới đế quốc lại thần hồn nát thần tính, đế quốc vô phương điều động thêm bộ đội đến Mĩ Ni Tư. Tiên đế đành nuốt lệ hạ lệnh triệt thoái bộ đội tàn dư. Ba sư đoàn quân, xuất chinh gần tám vạn người, trở về không tới ba ngàn, có thể nói toàn quân thảm tử. Giang Trữ thất bại lần đó gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, đế quốc bị bức phải bỏ quyền khống chế Mĩ Ni Tư, trơ mắt nhìn bạo loạn ngày càng ác liệt, rốt cuộc đi đến chỗ không thể vãn hồi. Tiên đế Đường Vinh cũng hối hận với quyết định của mình, không ngớt tự trách mình, cuối cùng đầu năm nay sầu não mà chết. Quân đội cũng vì thế không tin vũ khí hỏa dược. Vốn định trang bị hỏa khí cho Trung ương quân, cuối cùng đình chỉ toàn bộ. Các tướng lĩnh trẻ như Thượng Quan Thanh Tuyền, Điệp Phong Vũ càng công khai phản đối thay đổi quân trang cho sư đoàn. Ngay cả quân đội Mã Toa quốc và Y Lan quốc cũng dừng việc trang bị hỏa khí lại. Khắp nơi đều cho rằng, hỏa khí chịu ảnh hưởng rất lớn bởi khí trời, chỉ có lắp đặt trên tàu cỡ lớn hoặc pháo đài kiên cố mới có thể phát huy tác dụng.”
Dương Túc Phong nhíu mày: “Đó là vì Giang Trữ quá ngu chứ không phải bộ đội hỏa dược không biết dùng. Chẳng qua, hắc hỏa dược đúng là tệ thật nhưng nếu hỏa dược TNT thì không sợ thấm nước được.”
Dương Cơ Duệ không hề để ý việc Dương Túc Phong nhắc đến một từ lạ, lão chỉ thương tâm thở dài, nặng nề nói tiếp: “Sau khi Trung ương quân bị tiêu diệt, Bộ Thủ lại xuất đầu lộ diện. Hắn tự xưng mình là linh hồn của Tát Nhĩ Cống, được ông trời phái xuống lãnh đạo Mĩ Ni Tư. Đương nhiên, không mấy người tin lời xằng bậy của hắn, nhưng hắn lại thuyết phục được đám người Tây Mông đang rục rịch ngóc đầu dậy. Thắng lợi của người Ngõa Lạp làm bọn Tây Mông hoảng hốt, bọn chúng lo sợ thế cân bằng trên cao nguyên sắc máu bị phá vỡ. Vì thế, dưới sự dẫn dụ của Bộ Thủ, Tây Mông mau chóng triển khai năm vạn kị binh tiến vào Mĩ Ni Tư.”
Danh sách chương