Cùng thời điểm đó, tại Dưỡng Tâm điện nguy nga, tráng lệ.
Tư Dạ Hành Lâm vận bộ long bào vàng chói được thêu từng được trau chuốt từng đường kim mũi chỉ, ngồi trên tọa vị bằng gỗ Hoàng đàn*, chăm chú đọc tấu sớ.
*Hoàng đàn: loại gỗ quý từ xưa đến nay, có mùi thơm được đánh giá là chỉ đứng sau Trầm hương, có thể dùng làm nội thất, tượng phật hoặc hương liệu,...
“Thái hậu giá đáo.”
Thái giám đi bên cạnh Doãn Mễ Yên lã giọng thông báo, còn bà ta thì vẫn ngang nhiên như thường khi, tự do ra vào Dưỡng Tâm điện mà không cần đợi ai thông truyền.
Nghe tiếng chân Doãn Mễ Yên mỗi lúc một gần, Tư Dạ Hành Lâm vẫn cố tình cầm bút quạch qua khoanh lại vào tấu sớ, như cố tình lơ đi bà ta.
“Hoàng thượng, con còn giận ai gia sao? Ai gia biết bản thân mình có lỗi, nên cả tuần qua cũng đóng cửa cung, niệm phật sám hối, sau này cũng sẽ không có chuyện chưa điều tra ra chân tướng mà đã vội đổ oan nữa, hoàng thượng,...”
Tư Dạ Hành Lâm nhắm mắt, thở mạnh một hơi, đợi khi bình tâm lại rồi mới dẹp tấu sớ sang một bên, cung kính mời Doãn Mễ Yên ngồi xuống ghế.
Tuy vậy, giọng nói vẫn còn lãnh đạm vô cùng:
“Mẫu hậu nuôi trẫm từ lúc trẫm còn bước đi chập chững đến tận bây giờ, còn không hiểu lòng trẫm sao? Trẫm không giận vì người đổ oan cho Tư Dạ Hành Vũ, chỉ là kế sách này của người, thật sự quá sơ sài!”
Doãn Mễ Yên đưa tay vuốt ngực, mừng thầm vì suy cho cùng thì Tư Dạ Hành Lâm vẫn còn cùng hội cùng thuyền với mình, rồi mới nói tiếp:
“Được, vậy kế sách lần sau, ai gia nhất định sẽ chỉn chu kĩ lưỡng, một mẻ tóm gọn, không để xảy ra chuyện sơ sót như lần này nữa.”
“Không cần đâu! Kế sách thì trẫm đã chuẩn bị xong cả rồi, chỉ cần nhờ Thái hậu và hoàng hậu cùng ra tay hỗ trợ thôi.”
“Thật sao? Hoàng thượng, mưu kế đó là gì?”
Chỉ cần nghe đến việc hại người, hai mắt Doãn Mễ Yên lại sáng rớ cả lên.
Quan trọng là Tư Dạ Hành Lâm thông minh như vậy, còn sợ gì mà không hạ bệ được mấy kẻ không biết điều kia.
Tư Dạ Hành Lâm mở chiếc hộp gỗ trên bàn, lấy ra vài tấu sớ và một thánh chỉ.
Thánh chỉ đưa cho Doãn Mễ Yên, còn những cái kia thì chỉ mở rồi giơ ra trước mặt bà:
“Đây là tấu sớ do thừa tướng dâng lên, về việc cho đào thêm trước vài giếng nước thật sâu ở vùng phía Tây khô cằn, đợi đến mùa hè, sẽ vừa kịp cho dân chúng sử dụng.
Còn đây là tấu sớ về việc cho binh lính biên thùy được giảm thời hạn tòng quân từ mười năm xuống còn năm năm, để có thêm thời gian quay về sống cuộc đời bình thường, phụng dưỡng cha mẹ,...!còn đây, và cả đây nữa,...!những thứ này đều do Kim Quang một tay dâng lên từ hồi đầu xuân đến giờ, nhưng vẫn chưa được trẫm phê chuẩn.”
“Vậy thì sao?”
Tư Dạ Hành Lâm nhếch môi cười đắc ý, từng biểu cảm trên khuôn mặt đều khiến người khác chán ghét vô cùng:
“Trẫm định lần này sẽ phê chuẩn một lượt hết cho Kim Quang, cho lão ta thích làm gì thì làm, để lão ngu đần đó tin tưởng trẫm bội phần, toàn tâm phục dịch.
Rồi sau đó… một phát rơi từ đỉnh cao danh vọng xuống đáy bùn xã hội, kéo theo Kim thị, và cả tên hiền tế của lão ta cùng ôm nhau chết chung.
Thánh chỉ trẫm đưa cho mẫu hậu, cũng là nằm trong một phần kế hoạch.”
Doãn Mễ Yên chau mày nghi hoặc, lật đật giở thánh chỉ ra xem thử.
Sau một hồi trầm ngâm dò xét, hai hàng mày lá liễu giãn hẳn ra, khóe môi bà ta cong lên hài lòng:
“Thì ra là vậy, hoàng thượng quả thật là cao tay! Vậy ai gia sẽ lập tức chuyển thứ này cho Doãn tướng quân, chờ ngày hành động.”
“Được.
Còn cả chuyện… đành nhờ mẫu hậu đi bàn với hoàng hậu giúp cho trẫm, cùng chia nhau hành sự.”
Không rõ là Tư Dạ Hành Lâm đang nhỏ to xầm xì điều gì, mà Doãn Mễ Yên càng nghe, càng thấy thích thú.
Bà ta gật đầu liên tục, cảm thấy bản thân mình suốt hai mươi mấy năm qua đã không chọn lầm dưỡng tử.
---------------
Ba ngày sau, là vừa nhằm ngày sanh thần của thừa tướng Kim Quang, nhưng thay vì tổ chức tiệc thọ linh đình, ông chỉ cho người bày một mâm cơm ấm cúng để cả nhà cùng quây quần bên nhau.
Bởi từ trước đến nay ông luôn chán ghét sự xa hoa, rầm rộ, năm nay không phải đại thọ*, nên cũng chẳng cần bày vẻ làm gì.
*Đại thọ ở đây nói đến các năm tuổi có số đẹp, trọng đại bốn mươi, năm mươi, sáu mươi tuổi,...
Trong biệt viện của thừa tướng phủ, bốn người Kim Quang, Đường Nguyệt Cát, Kim Tịnh Ngọc và Tư Dạ Hành Vũ ngồi vào cùng một chiếc bàn tròn lớn, còn chừa một chỗ trống cho Kim An Bình.
Thoạt nhìn qua, cứ hệt như cuộc hội ngộ của một gia đình hạnh phúc, nhưng thực chất cũng chẳng được mấy người cảm thấy dễ chịu khi ngồi với nhau.
“Phụ thân, cha hãy ăn nhiều thêm một chút, dạo này con thấy hình như người ốm đi nhiều rồi!”
Kim Tịnh Ngọc vừa nói, vừa gắp một miếng thịt thơm lừng bỏ vào trong chén của Kim Quang, nhưng ông còn chưa kịp cười thì đã bị người bên cạnh dập tắt hết mọi xúc cảm:
“Cũng hiếu thảo quá nhỉ? Nếu ngươi có hiếu như vậy, tại sao ngày đó không tìm cách cứu An Bình của ta? Nếu ngươi cứu được con bé, thì lão gia làm gì đau buồn quá độ đến mức ăn không ngon, ngủ không yên? Cơ thể của ông ấy cũng sẽ không vì chuyện đó mà ngày càng suy nhược!”
“Cạch!”
Kim Tịnh Ngọc lạnh lùng đập đũa xuống bàn, cả biểu cảm lẫn giọng nói khi đối diện với người đối diện đều lạnh nhạt dưới mức bình thường:
“Di nương, ta còn ngồi đây là vì nể mặt phụ thân, còn bà vẫn được ngồi ở đây, là vì ta nể mặt An Bình.
Hôm nay là mừng thọ phụ thân, ta cũng không thích chém giết đổ máu.
Ta chỉ nói như vậy, người thông tuệ như di nương chắc chắn sẽ hiểu được, đúng chứ?”
“Ngươi…”
“Khụ…”
Kim Quang bỗng dưng ho lên một tiếng, không rõ là vô ý hay cố tình, nhưng lại khiến Kim Tịnh Ngọc xoay sang lo lắng cho ông, không còn chú tâm đến Đường Nguyệt Cát nữa.
“Phụ thân, người không sao chứ?”
“Không sao, không sao, chẳng qua là ta bị sặc thức ăn thôi, không có gì đáng lo lắng… Nhưng mà đột nhiên ta không muốn ăn nữa, muốn đến tòa vọng lâu trong hoa viên để uống rượu, thưởng hoa hơn.”
Nghe Kim Quang nói vậy, Kim Tịnh Ngọc sốt sắng vô cùng, vội đứa dậy đỡ ông lên:
“Được, vậy hà nhi sẽ cùng đi uống với người!”
Tư Dạ Hành Vũ nghe vậy, định mở miệng chen vào, nhưng cứ như thể giữa hắn và Kim Quang có mối liên kết tâm trí với nhau vậy.
Kim Quang đưa mắt nhìn hắn, rồi vừa cười vừa nói:
“Tịnh Ngọc là nữ nhi, làm sao có thể trở thành bạn rượu của ta được? Chẳng phải ta vẫn còn một hiền tế sao, nếu con chịu uống với ta, thì còn gì bằng?!”
“A, nhạc phụ nói chí phải! Được trở thành bạn rượu của nhạc phụ, là vinh dự của tiểu tế!”
Tư Dạ Hành Vũ và Kim Quang người tung người hứng, không cho Kim Tịnh Ngọc có cơ hội trở tay.
Chỉ trong phút chốc, hai người đã kéo nhau đi mất hút, trong phòng chỉ còn lại Kim Tịnh Ngọc và Đường Nguyệt Cát, khiến bầu không khí càng thêm nặng nề.
Đường Nguyệt Cát vẫn không chịu buông tha cho nàng, trên mặt hiện rõ thái độ coi khinh, nói:
“Rõ ràng lúc nãy mọi thứ vẫn đang rất bình thường, nếu không phải ngươi bày vẻ, thì có khi lão gia sẽ ăn thêm được vài món nữa.
Đúng là tai ương mà!”
Kim Tịnh Ngọc nhắm chặt hai mí mắt, nắm tay cung chặt đến toàn thân run bần bật cả lên:
“Có tai ương hay không, tự bản thân ta hiểu rõ.”
Nàng nói rồi định quay gót rời đi cho xong chuyện, nhưng mới bước được mấy bước, còn chưa ra khỏi phòng thì đối phương lại tiếp tục rống cổ lên nguyền rủa, lời lẽ thật sự không thể thứ tha:
“Ngươi còn cố tỏ ra bản thân mình không có lỗi? Đừng tưởng ta không biết ngươi có thể cứu An Bình nhưng vẫn trơ mắt đứng nhìn con bé vào chỗ chết.
Là ngươi đã hại An Bình, cũng là ngươi tự khắc chết mẫu thân của mình! Ai ở cạnh ngươi đều phải chịu tai ương, nhất định là cả vị vương gia kia cũng không tránh khỏi được đâu! A!”
Đường Nguyệt Cát thét lên một tiếng, hoảng hồn quay đầu lại nhìn phi tiêu vừa lướt qua mặt mình, đang ghim chặt ở bức tường cách đó không xa.
Giọng bà ta run run, dường như đã bắt đầu hối hận với những gì mình vừa thốt ra.
Kim Tịnh Ngọc lạnh lùng và vô hồn như quỷ sai, từng bước tiến lại gần khiến Đường Nguyệt Cát sợ chết khiếp, càng cố lùi về sau, thì càng bị ép vào sát tường, cũng là bước đường cùng cho chính mình.
Tịnh Ngọc vẫn không rời mắt khỏi bà ta, rồi chỉ thuận tay đưa lên tường rút phi tiêu mình vừa phóng cất lại vào trong tay áo, cũng đã khiến đối phương sợ chết khiếp.
“Để ta nói cho bà biết, An Bình ra đến nông nỗi này, chính là nhờ một tay bà sắp xếp để muội ấy trở thành phi tử của thái thượng hoàng.
Chuyện do một tay mình làm, thì hãy nên nhớ cho thật kĩ.
Còn về mẫu thân của ta, làm sao ta biết là vì ta khắc chết người, hay là vì người bị bà chọc đến tức chết? Ngay cả ta nữa, bà tốt nhất là nên thấy có lỗi với ta đi, vì ta với bà đâu chỉ là quan hệ mẹ ghẻ con chồng?”
Kim Tịnh Ngọc nói xong, cũng không buồn ở lại.
Đợi đến khi nàng đã rời đi rồI, Đường Nguyệt Cát mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn còn ôm mãi mối hận trong lòng.
Mấy mươi năm trước, bà ta với tỷ tỷ song sinh của mình là Đường Nguyệt Cung được gả vào nhà họ Kim cùng lúc, nhưng Nguyệt Cung được làm đích thê, còn bà ta phải chịu cảnh thiếp thất.
Không chỉ vậy, dù là dung mạo hệt nhau, nhưng lúc nào Đường Nguyệt Cung cũng được Kim Quang yêu thương gấp bội, khiến bà ta luôn ganh ghét và đố kị.
Ngay cả lúc ở nhà họ Đường, Đường Nguyệt Cung vì giỏi đủ cầm kì thi họa, nên cũng được phụ mẫu yêu thương hơn Nguyệt Cát,...!tất cả những chuyện này đã tích tụ thành một mối hận khó phai.
Đến lúc Đường Nguyệt Cung qua đời, đối với Đường Nguyệt Cát chính là một sự giải thoát, nhưng nào ngờ thầy bói lại nói con của Nguyệt Cung là Tịnh Ngọc và con của bà ta là An Bình lại có số phận trái ngược nhau, hễ người này hạnh phúc thì người kia phải chịu đau khổ.
Khi hai đứa trẻ lớn lên, lại là một vòng lặp cũ.
Kim Tịnh Ngọc giỏi văn giỏi võ, xinh đẹp rạng người, Kim An Bình tuy cũng cùng một nhan sắc, nhưng sức khỏe lại quá yếu ớt, nếu đem so bì thì cũng phải thua đến hai phần.
Rồi mọi chuyện cũng diễn ra đúng như lời thầy bói năm xưa nói, An Bình bị ép chết không lời trăn trối, Tịnh Ngọc thì trở thành vương phi cao quý vạn người ngưỡng mộ.
Đường Nguyệt Cát ngã quỵ xuống sàn, ấm ức đến nước mắt tuôn ra như suối.
Ông trời bất công như vậy, thử hỏi làm sao bà ta không hận cho được đây?
\=\=\=\=\=\=\=\=\=\=\=\=\=\=
Theo chư vị, Đường Nguyệt Cát đáng thương hay đáng trách?.